Xu Hướng 9/2023 # 12 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm “Lão Hạc” Của Nam Cao Hay Nhất # Top 15 Xem Nhiều | Ysdh.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # 12 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm “Lão Hạc” Của Nam Cao Hay Nhất # Top 15 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết 12 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm “Lão Hạc” Của Nam Cao Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Ysdh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 12 Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 11

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 12

Cùng với Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố, Nam Cao là tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán, luôn hướng về người nông dân, phản ánh hiện thực đời sống của người nông dân trước Cách mạng. Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm đặc sắc của Nam Cao, nó như một điểm son trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Nam Cao luôn trăn trở về số phận của người nông dân lương thiện trong xã hội phong kiến. Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên là chân dung của một lão nông Việt Nam đáng thương và đáng kính. Số phận của Lão Hạc thật đáng thương bởi cái nghèo nàn, túng thiếu. Vợ mất sớm, lão dồn tình thương nuôi con khôn lớn. Khi đứa con trai đến tuổi lấy vợ, lão tính chuyện cưới vợ cho con, nhưng vì nghèo túng mà người ta lại thách cưới nặng quá nên con trai không cưới được vợ. Thất vọng, đứa con bỏ nhà ra đi làm phu đồn điền ở Nam Kì. Khi con đi rồi, lão cô đơn, sống trong hiu quạnh. Bấy giờ, chỉ có con Vàng là nguồn vui của lão. Cậu Vàng được lão chăm sóc chu đáo. Lão xem cậu Vàng như một đứa trẻ cần sự chăm sóc, yêu thương.

Lão nhân hậu ngay cả với con chó của mình. Tội nghiệp cho số phận ông lão. Cuộc đời túng quẫn, nghèo khó cứ đeo đẳng bên ông. Vợ chết để lại mảnh vườn ba sào, nhưng lão nhất quyết không bán dù cho nghèo khó. Lão tự bảo: Cái vườn là của con ta … của mẹ nó tậu thì nó được hưởng. Lão nghĩ vậy và làm đúng như vậy. Tất cả hoa lợi thu được lão bán để dành dụm riêng chờ ngày con về cưới vợ. Cảm thương cho ông lão đã vò võ trông con về làng, lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về cũng có được trăm đồng bạc. Nhưng hy vọng chẳng có, thất vọng lại về, lão bị một trận ốm đúng hai tháng mười tám ngày, bao nhiêu vốn liếng dành dụm được đều sạch nhẵn. Sau trận ốm, người lão yếu quá, không làm được việc nặng, việc nhẹ thì người ta tranh hết, lão phải cầm hơi qua ngày bằng củ chuối, củ ráy, con ốc, con trai…

Vì không kiếm được tiền để sống, lại sợ tiêu lạm vào tiền của con nên lão quyết định tìm đến cái chết. Lão chết để con lão khỏi trắng tay. Thật cảm động biết bao về tấm lòng yêu thương bao la và đức hi sinh cao cả của một người cha khốn khổ! Số phận của lão thật bi thương. Nghèo đến nỗi phải bán đi con Vàng mà lão yêu thương, gắn bó. Kể lại việc bán chó với ông giáo, lão đau đớn xót xa: mặt lão đột nhiên rúm lại, những nép nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc… lão khóc vì thương chó, và cảm thấy mình là kẻ lừa dối khi bán cậu Vàng. Số phận của lão thật bi thương nhưng lão không đánh mất phẩm giá của mình. Đến bước đường cùng lão luôn nghĩ đến con mà chẳng nghĩ đến mình.

Lão đủ can đảm để nghĩ đến chuyện kết thúc cuộc đời để không làm phiền đến ai. Lão từ chối mọi sự thương hại của người khác, cho dù đó là sự cưu mang chân tình. Ngay cả ông giáo, người hàng xóm gần gũi nhất và tin tưởng nhất, ông cũng từ chối sự giúp đỡ. Lão Hạc còn nghĩ đến cái chết không làm phiền lòng người khác. Lão nhịn ăn, tích góp được hai lăm đồng cộng với năm đồng bán chó, lão gửi ông giáo nhờ làm đám ma cho lão. Trước khi chết, lão còn nghĩ đến hạnh phúc của con. Lão viết văn tự nhượng mảnh vườn cho ông giáo để không ai còn mơ tưởng, dòm ngó đến, khi nào con lão về thì sẽ nhận vườn làm. Tuy lão nghèo khó, lại bị xã hội bỏ rơi nhưng lão vẫn giàu đức hi sinh, giàu tình thương và giữ vững phẩm chất cao đẹp của mình.

Hình ảnh Lão Hạc chết thật thê thảm. Lão mượn miếng bả chó để tự kết liễu đời mình. Tội nghiệp cho lão quá! Lão vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra… Cái chết đau đớn của lão đã làm sáng tỏ thêm phẩm chất cao đẹp của người nông dân hướng thiện. Tuy sống trong cái xã hội đầy bóng tối, nhưng tâm trí lão vẫn sáng ngời, tính cách của lão thật cao quí. Cả đời lão nghèo đói nhưng không làm mất đi tấm lòng đôn hậu, trong sáng của mình.

Với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, xen kẽ tự sự, Nam Cao đã gợi cho ta niềm cảm thương vô hạn đối với những người nông dân nghèo khổ. Ngòi viết của Nam Cao là tiếng nói cảnh tỉnh về một xã hội thiếu công bằng, không quan tâm đến người nghèo, chà đạp lên số phận của con người lương thiện.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 11

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 10

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 11

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 – 1945. Qua nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng không ít tới nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính là một nông dân gặp nhiều nỗi bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con và có lòng tự trọng.

Vợ mất sớm, lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão sẽ sung sướng biết dường nào nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã bị phụ tình chỉ vì quá nghèo, không đủ tiền cưới vợ. Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau của con khi anh nghe lời cha, không bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con, lão càng xót xa đau đớn vì không giúp được con thỏa nguyện, đến nỗi phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền đất đỏ mãi tận Nam Kì. Mỗi khi nhắc đến con, lão Hạc lại rơi nước mắt. Lão Hạc rất quý con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi là cậu Vàng và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Suốt ngày, lão thầm thì to nhỏ với con Vàng. Với lão, con Vàng là hình bóng của đứa con trai yêu quý, là người bạn chia sẻ cô đơn với lão. Vì thế nên bao lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi.

Nhưng nếu vì nhớ con mà lão Hạc không muốn bán cậu Vàng thì cũng chính vì thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Lão đã tính chi li mỗi ngày cậu ấy ăn thế bỏ rẻ cũng mất hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tôi lấy tiền đâu mà nuôi được… Thôi bán phắt đi, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Bây giờ, tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của con. Tiêu lắm chỉ chết nó! Thế là vì lo tích cóp, giữ gìn cho con trai chút vốn mà lão Hạc đành chia tay với con chó yêu quý. Đã quyết như thế nhưng lão vẫn đau đớn, xót xa. Lão kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ dằn vặt vì cảm thấy mình đã đánh lừa một con chó. Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi lên. Trước đây, lão dằn vặt mãi về chuyện vì nghèo mà không cưới được vợ cho con, thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão thêm day dứt là đã cư xử không đàng hoàng với một con chó. Lão cố chịu đựng những nỗi đau đớn ấy cũng chỉ nhằm một mục đích là giữ gìn chút vốn cho con.

Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con chính là cái chết của lão. Ông lão nông dân nghèo khổ ấy đã tính toán mọi đường: Bây giờ lão chẳng làm gì được nữa… Cái vườn này là của mẹ nó chắt chiu dành dụm cho nó, ta không được ăn vào của nó… Ta không thể bán vườn để ăn… Chính vì thương con, muốn giữ cho con chút vốn giúp nó thoát khỏi cảnh nghèo mà lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là một sự chọn lựa tự nguyện và dữ dội. Nghe những lời tâm sự của lão Hạc với ông giáo, không ai có thể kìm nổi lòng xót thương, thông cảm và khâm phục. Một con người vì nghèo đói mà bất hạnh đến thế là cùng! Một người cha thương con đến thế là cùng!

Không chỉ có vậy, qua từng trang truyện, chúng ta còn thấy lão Hạc là người đôn hậu, chất phác. Suốt đời, lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng. Trong làng chỉ có ông giáo là người có học nên lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự. Lời lẽ của lão Hạc đối với ông giáo lúc nào cũng lễ phép và cung kính. Đó là cách bày tỏ thái độ kính trọng người hiểu biết, nhiều chữ của một lão nông. Cảnh ngộ lão Hạc đã đến lúc túng quẫn nhưng lão tự lo liệu, xoay xở, cố giữ nếp sống trong sạch, tránh xa lối đói ăn vụng túng làm càn. Thậm chí, lão kiên quyết từ chối sự giúp đỡ chỉ vì lòng thương hại.

Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo viết văn tự để giữ hộ con trai mình mảnh vườn và gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn cất. Lão không muốn mọi người phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại chẳng oán trách lão sao? Không phiền lụy đến mọi người, đó cũng là cách để giữ gìn phẩm giá. Thì ra ông lão có vẻ ngoài gàn dở ấy lại có phẩm chất đáng quý biết nhường nào!

Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc chúng ta nhớ đến những con người nghèo khó mà trong sạch với một tình cảm trân trọng và yêu quý.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 9

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 10

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm – nhân vật lão Hạc – dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.

Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,…

Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử…! Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên… Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó. Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.

Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,… ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,… là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.

Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy! Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Caor..) nhưng lão Hạc thì không.

Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch” khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: “con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!

Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người – kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc! Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.

Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc. Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã. Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.

Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiệm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!

Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 8

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 9

Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, “’Lão Hạc” là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.

Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con chó vàng… đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con, lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới vợ, cảm thấy “nhục lắm” đã “phẫn chí” đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt năm, sáu năm chưa về. Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày. Không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tinh cảnh ấy thật đáng thương! Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn “đói deo đói dắt”. Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!

”Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (…). Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?”. Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý định phải bán con chó. Cậu Vàng “ăn khỏe”, mỗi ngày cậu ấy ăn “bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào”. Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng “lấy tiền đâu mà nuôi được?” Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục… Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ “tệ lắm”, đã già mà còn “đánh lừa một con chó”. Đói khổ, túng bấn, cô đơn… ngày một thêm nặng nề… lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo một cách “gần như là hách dịch”. Lão xa ông giáo dần, chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép sùi ra… vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!

Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thám. Chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thắt cổ chết… Và lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo: ”… nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?”. Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khố tột cùng của một kiếp người.

Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con buồn vì không có tiền để cưới vợ lão thương con lắm…. Lão đau đớn khi con sắp đi làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: “Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi (…). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ?”. “Cao su đi dễ khó về” (Ca dao). Con trai lão Hạc đã đi “bằn bặt” năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về “có chút vốn mà làm ăn”. Lão tự bảo: “Mảnh vườn là của con ta… Của mẹ nó tậu thì nó hưởng…”. Đói khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, thà chết chứ không chịu bán đi một sào. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn!

Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng, mà người con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là “cận Vàng”. Cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: “Cậu Vàng của ỏng ngoan lắm! Ông không cho giết… Ông để cậu Vàng ông nuôi…”. Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.

Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy… ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè, lão cười hồn hậu và khất “ông giáo cho để khi khác”. Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”. Bất đắc đĩ phải bán con chó; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: “thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: “Cái vườn là của con ta (…). của mẹ nó tậu thì nó hưởng”. Tnrớc khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 đồng bạc đê “lỡ có chết… gọi là của lão có tí chút…”, vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế đưa nhân vật Binh Tư, một kẻ “làm nghề ăn trộm” ở phần cuối truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.

Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng… Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 8

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 7

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 8

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên là một trong những nhân vật “để đời” của Nam Cao. Lão Hạc, một nông dân nghèo khổ, cùng quẫn, nhưng không bị biến chất như Chí Phèo, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng. Lão sống một thân một mình trong cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để nương tựa tuổi già thì anh ta lại phẫn chí bỏ đi phu đồn điền cao su- “cao su đi dễ khó về”. Lão Hạc đành thui thủi làm thuê, làm mướn kiếm ăn lân hồi, đồng thời cố nhặt nhạnh, dành dụm cho con.

Nhưng một trận ốm đã làm lão trở nên tay trắng. Sức yếu dần “những công việc nặng không làm được nữa”, việc nhẹ thì “đàn bà tranh hết”. Lão Hạc không có việc. Rồi lại bão. Hoa màu trên mảnh vườn bị phá sạch sành sanh. Gạo cứ kém dần. “Một lão với một con chó, mỗi ngày ba hào gạo mà gia sự còn đói deọ đói dắt. Cuối cùng lão phải ăn khoai. Khoai cũng hết. Bắt đầu từ đây, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc.

Thực ra tình cảnh lão Hạc đã làm gì bế tắc đến thế. Lão còn mảnh vườn đó, con chó vàng đó, có thể bán đi mà tiêu. Nhưng lão sống vì con chứ đâu vì mình. Điều này mấy ai hiểu cho lão. Người ta chỉ thấy lão lẩm cẩm. Có ông giáo hàng xóm là người có lòng ái ngại, nhưng vừa bày tỏ với vợ đã bị thị gạt phắt ngay: “Cho lão chết! Ai bão lão có tiền mà chịu khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Con mình cũng đóiCòn Binh Tư, một gã lưu manh chuyên đánh bả chó thì lại lấy làm khoái chí khi thấy lão đến xin mình một ít bả. Hắn tưởng đâu lão Hạc “đói quá hoá liều” cũng quay sang trộm cắp như hắn. Hắn bĩu môi: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu”. Ngay đến ông giáo tuy hiểu lão Hạc hơn cả mà cũng đâm ra nghi ngờ.

Người ta chỉ hiểu lão khi lão đã chết rồi. Lão tự tử bằng nắm bả chó của Binh Tư. Lão chết đi nhưng sẽ còn sống mãi trong lòng người như một tấm gương đạo đức hiếm có. Hiếm có người cha nào thương con như lão Hạc. Nghèo khó nhưng lúc nào cũng nghĩ đến bổn phận làm cha, lo làm tròn bổn phận ấy, dẫu có phải chịu khổ, chịu đói và chết bi thảm. Hình ảnh đứa con trái, nỗi lo chu tất cho con luôn ám ảnh, dằn vặt tâm trí lão. Hồi anh ta còn ở nhà, lão không cho anh ta bán vườn để cưới vợ cũng là xuất phát từ sự tính toán điều hơn lẽ thiệt của bậc làm cha. Thực ra lão dằn lòng lắm. Bởi đạo làm cha phải lo cho con một người vợ, một căn nhà – một tổ ấm gia đình. Song tình cảnh lão thì lo chưa chu toàn được. Anh con trai phẫn chí ra đi, ngày về khó hẹn, lão lại đã già.

Đã bao lần, lão ngỏ tâm sự này với ông giáo: tiền hoa lợi trong vườn, tiền bán con chó vàng, mảnh vườn, lão không giám đụng đến, vì đây là tiền của con, là tiền mà người làm cha phảiđể lại cho con. Nếu không, không phải “đạo”. Đã bao lần lão tính tiền bòn vườn sủa con, “không cho bán là ta chỉ có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta ăn đâu!… Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào cho nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn”. Lão đã làm y như thế. Thà ăn khoai, ăn củ chuối, củ ráy… chứ lão không ăn vào tiền của con, không chịu bán mảnh vườn của con.

Bao nhiêu tiền nhặt nhạnh được từ mảnh vườn, lão gửi tất cả nhờ ông giáo giữ hộ. Rồi lão chết để không bao giờ phải đụng đến. ôi, lão Hạc, con người bề ngoài thì có vẻ tiều tuỵ và gàn dở như vậy mà thật giàu tình nặng nghĩa. Mà đâu chỉ đối với đứa con. Tấm lòng nhân hậu của lão còn thể hiện ở cái tình rất nặng với con chó vàng mà lão gọi là “cậu vàng” như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Cứ xem cái cách lão nựng con chó: “À không! À không! Cậu vàng của ông ngoan lắm! ông không cho giết… ông để cậu vàng ông nuôi”…, hay cái vẻ mặt vô cùng đau khổ của lão khi kể cho ông giáo nghe lão đã bán con chó. “Mặt lão tự nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít”, đủ thấy lão thương xót con chó và cảm thấy mình có tội như thế nào khi phải bán nó đi.

Chân thật, chất phác, đôn hậu, tràn đầy tình thương và trách nhiệm, lão Hạc cũng thật giàu lòng tự trọng. Đối với ông giáo, người lão tin tưởng và quý trọng đến thế, lão cũng vẫn giữ ý để khỏi bị coi thường. Lão đói đấy, lão phàn nàn “kiếp người như lão cũng khổ như kiếp chó” đấy, nhưng khi ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè tươi, lão đã từ chối. Lão dứt khoát “từ chối tất cả”. Khi ông giáo giấu vợ, thỉnh thoảng muốn ngấm ngầm giúp đỡ lão một chút gì, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”. Rồi lão cứ cố ý xa ông giáo dần dần.

Cuối cùng thì lão Hạc chết. Chủ động tìm đến cái chết, một cái chết bi thảm, khốc liệt như là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng thăm thẳm vào lòng người. Gần đây người ta đã dựng phim về các nhân vật của Nam Cao – phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Nhà văn Kim Lân được mời đóng vai lão Hạc. Kim Lân đã nghiền ngẫm kĩ về nhân vật của mình, ông nói: “Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó là một con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất”.

Chúng ta cũng hoàn toàn đồng ý với Kim Lân. Ta còn thấy rằng những phẩm chất ấy của lão Hạc đã cho ta những suy nghĩ sâu sắc. Cái chết của lão Rạc đã để lại cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn là nhiều bài học quý. Bài học sâu sắc nhất là trong bất kì thân phận nào, hoàn cảnh nào cũng phải giữ danh hiệu con người cao quý. Giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải hiểu biết để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng hơn ở con người và cuộc đời. Và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác vùi dập, đày đọa những con người như lão Hạc.

Vợ ông giáo từng nói về lão Hạc: “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ. Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!”. Nhưng thực ra sống làm người, có những điều dù khổ, dù phải tự làm khổ mình cũng phải giữ. Chết cũng giữ! Đó là những điều thuộc vềđạo lí, nhân cách làm người như lão Hạc đã giữ.

Vì thế, đã hơn 60 năm (truyện Lão Hạc ra đời năm 1943), lão Hạc vẫn sống cùng chúng ta,sẽ còn sống cùng chúng ta. Và dẫu cho cuộc đời này còn nhiều nỗi đáng buồn nhưng có những con người như lão Hạc thì cuộc đời “chưa hẳn đã đáng buồn”.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 6

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 7

Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất của văn học hiện thực trước cách mạng. Các tác phẩm của ông sáng tác trên hai đề tài lớn là người trí thức và người nông dân, nhưng thành công hơn cả là khi ông viết về đề tài người nông dân. Viết về người nông dân, nhà văn có khuynh hướng khám phá, phát hiện những vẻ đẹp phẩm chất ẩn sâu trong con người họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy.

Trước hết về nhân vật lão Hạc, lão có số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những phẩm chất cao đẹp, đại diện cho người nông dân. Số phận lão Hạc cũng là số phận chung của biết bao người nông dân trước cách mạng. Vợ lão chết sớm, lão ở vậy gà trống nuôi con. Đứa con lớn lên vì không lấy được người mình yêu nên phẫn chí bỏ nhà ra đi. Lão ở vậy một mình với cậu Vàng – kỉ vật người con trai để lại. Nhưng cuộc đời lão càng ngày lại càng bi đát hơn, lão bị ốm, lão tiêu tốn nhiều tiền dành dụm cho con, bởi vậy lão đành bán cậu Vàng – người bạn đã ở bên giúp lão vơi bớt nỗi buồn khi phải xa con. Khi bán cậu Vàng lão vô cùng đau đớn, ân hận. Nỗi ân hận đó được thể hiện qua đoạn văn miêu tả đặc sắc: cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cảnh của lão thật đáng thương, lão luôn sống trong sự day dứt, dằn vặt bản thân.

Nhưng ẩn đằng đó chính là những phẩm chất cao đẹp của người nông dân lương thiện. Lão là một người giàu tình yêu thương, tình yêu thương đó được thể hiện ngay cả với một con vật: lão gọi chó là cậu Vàng, gọi nịnh như gọi một đứa trẻ, ông chăm sóc cậu Vàng chu đáo: cho ăn cơm trong bát như một nhà giàu, không chỉ vậy ông còn trò chuyện, mắng yêu cậu vàng,… cậu Vàng làm lão bớt cô đơn, vợi đi nỗi nhớ con. Tình cảm sâu nặng của ông với cậu Vàng có nguồn gốc sâu xa từ tình yêu thương con của lão Hạc, con chó là kỉ vật thiêng liêng mà người con để lại cho ông trước khi đi đến đồn điền cao su.

Tình phụ tử ở lão Hạc cũng vô cùng sâu sắc, thiêng liêng. Vì cảnh nghèo không cưới được vợ cho con, lão vô cùng đau đớn, bởi vậy bao nhiêu tiền của làm được lão đều dành dụm cho con, lão chịu kham khổ, để người đời chửi mắng chứ nhất định không chịu tiêu lạm vào tiền của con. Sau khi bị bệnh nặng, lão chỉ ăn khoai, hết khoai lão ăn củ chuối, rồi ăn sung luộc, rau má, củ ráy,… nghĩa là vớ được thứ gì lão ăn thứ ấy,… Và cuối cùng lão lo lắng sẽ tiêu hết tiền cho con nên lão đành chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết đau đớn của lão Hạc xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà lớn lao.

Mặc dù nghèo khổ nhưng lão luôn giữ lòng tự trọng. Lão không nhận bất cứ sự giúp đỡ của ai, ngay cả khi ông giáo đề nghị giúp, lão từ chối một cách hách dịch, bởi lão hiểu hoàn cảnh gia đình ông giáo cũng nghèo túng chẳng khác gì gia đình mình. Lòng tự trọng đó còn được thể hiện trong cách thức tìm đến cái chết của ông. Trước khi chết ông để lại tiền nhờ bà con lo ma chay, không muốn phiền hà đến hàng xóm. Lão chết bằng cách ăn bả chó, cái chết đau đớn, dữ dội như một lời tạ tội với cậu Vàng. Cái chết của lão Hạc chính là sự khẳng định cho sức sống bất diệt của nhân cách trong ông.

Ngoài nhân vật lão Hạc trong tác phẩm ta còn thấy nổi bật lên hình ảnh của một ông giáo nghèo, người bạn thân thiết của lão Hạc. Ông giáo có sự đồng cảm sâu sắc với cảnh ngộ đáng thương của lão Hạc: an ủi, động viên khi lão bán chó, chia sẻ nỗi buồn với lão Hạc, luôn tìm mọi cách làm cho lão khuây khỏa, lạc quan,… Ông còn là người am hiểu tường tận nhất vẻ đẹp nhân cách của lão hạc: “Không cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Nghĩa khác ấy chính là con người có nhân cách cao đẹp nhưng lại phải chết vật vã, đau đớn và cái chết ấy lại càng làm sáng hơn nhân cách cao đẹp của lão.

Với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, ngôn ngữ giản dị, lôi cuốn Nam Cao đã cho người đọc thấy chân dung số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng, họ bị đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết. Nhưng đằng sau đó còn là chân dung tinh thần đẹp đẽ: giàu tình yêu thương và nhân cách cao đẹp.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 6

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 5

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 6

Trong đội ngũ nhà văn hiện đại Việt Nam, Nam Cao được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng. Ông hi sinh năm 1951 trong cuộc kháng chiến chống Pháp, lúc đó, ông mới 36 tuổi. Tuy cuộc đời ngắn ngủi nhưng Nam Cao đã để lại cho đời nhiều áng văn có sức sống lâu bền. Tác phẩm của Nam Cao – những truyện ngắn, truyện dài – thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.

Đó là những trang viết chân thực, vô cùng sâu sắc về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức cùng phẫn phải sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Đọc truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, chúng ta bắt gặp cả hai kiểu nhân vật đó: lão Hạc và ông giáo. Ông giáo là người kể chuyện, lão Hạc là nhân vật chính của câu chuyện. Cả hai người đó đều đáng cảm thông và đáng trân trọng, nhất là lão Hạc. Lão Hạc – ông cụ lão nông ấy – đã phải trải qua hai cái chết trong cuộc đời mòn mỏi bế tắc, nhưng có một tấm lòng thương con vô cùng sâu nặng.

Đọc phần trước đoạn trích trong sách Ngữ văn 8, chúng ta biết cảnh ngộ của lão Hạc thật bi thảm. Nhà nghèo, vợ chết, hai cha con lão Hạc sống lay lắt, rau cháo qua ngày. Một ngày nọ, người con trai của lão phẫn chí vì không có tiền cưới vợ, bỏ đi làm phu đồn điền cao su biền biệt, một năm nay chẳng có tin tức gì. Lão Hạc thui thủi sống cô quạnh một mình với con chó Vàng, kỉ vật người con trai để lại. Lão gọi con chó là “cậu Vàng”, coi con vật như người thân trong nhà. Vắng nhà đi kiếm ăn thì thôi, hễ về tới nhà là ông lão lại trò chuyện tâm tình, chia sẻ mọi nỗi vui buồn với “cậu Vàng”.

Nhiều khi lão gọi Vàng là con, là… cháu, xưng ông cứ y như là hai ông cháu vậy. Đối với lão Hạc, con chó là niềm vui, là nguồn hạnh phúc đơn sơ mà thiết thực giúp lão sống trong đói nghèo để đợi người con trai trở về xây dựng hạnh phúc lứa đôi và hạnh phúc gia đình cho lão được sống bên con, bên cháu, vui vầy như bao người bình thường khác. Nhưng sự túng quẫn ngày càng đe dọạ lão. Sau trận ốm nặng kéo dài, lão yếu người đi ghê lắm. Đồng tiền bấy lâu nay dành dụm cạn dần. Lão không có việc làm. Rồi một cơn bão ập đến, phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn. Giá gạo thì cứ cao mãi lên. Vì thế, lão Hạc lấy tiền đâu để nuôi “cậu Vàng” ? Kể ra trong nhà cũng còn ít tiền để dành cho đứa con trai, nhưng lão không muốn tiêu lẹm vào đấy. Mà cho “cậu Vàng” ăn ít, thì “cậu” gầy đi, tội nghiệp. Ông lão nông nghèo khổ ấy cứ băn khoăn day dứt mãi, cuối cùng dằn lòng quyết định bán “cậu Vàng”, rồi đến nhà ông giáo cậy nhờ một việc quan trọng.

Đọc phần trích, cũng là phần đặc sắc nhất của thiên truyện, chúng ta cảm nhận rõ hai sự việc lớn của cuộc đời lão Hạc : việc bán “cậu Vàng” và việc tìm đến cái chết. Hai sự việc ấy tuy khác nhau nhưng đều toát lên một ý nghĩa chung vé tấm lòng người cha thương con mênh mông, sâu nặng. Bán con chó Vàng, lão Hạc đối mặt với cái chết thứ nhất. Vì sao lão Hạc phải bán “cậu Vàng” ? Như phần trên ta đã biết, nếu để con chó lại nuôi thì lão Hạc phải tiêu lẹm vào số tiền dành dụm cho người con đang xa nhà. Điều đó lão không muốn, tuyệt đối không muốn. Đối với lão Hạc, số tiền và mảnh vườn dành cho con thiêng liêng như một báu vật mà hằng ngày lão chỉ biết hết lòng bảo vệ chứ không bao giờ dám xâm phạm. Việc quyết định bán con chó Vàng bắt nguồn từ tấm lòng thương con sâu sắc của một người cha nhân hậu và giàu lòng tự trọng.

Bán con chó Vàng vì thương con, nhưng rồi lão Hạc lại vô cùng ăn năn, day dứt. Lão sang nhà ông giáo giãi bày những nỗi đau thống thiết của mình. “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Mấy câu văn ngắn ngủi đặc tả ngoại hình nhân vật thật ấn tượng. Tác giả đã sử dụng các từ tượng hình : “co rúm lại”, “xô lại”, “ngoẹo về một bên”… và một từ tượng thanh “hu hu” khiến cho nét mặt, thân hình và tâm trạng của lão Hạc hiện lên thật thê thảm. Làm một việc vì tình thương con, nhưng người cha ấy vẫn tự dằn vặt, đau khổ như vừa phạm lỗi lớn. Phải chăng lão Hạc cảm thấy mình có lỗi với “cậu Vàng”, con vật rất đỗi thân thương của lão ? Ta nghe lời lão kể với ông giáo trong truyện mà như nghe chính lão Hạc kể với ta : “Này… cái giống nó cũng khôn ! Nó cứ làm in như nó trách tôi ; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo,.tôi rằng : A ! Lão già tệ lắm ! Tôi ân ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à ?. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó !…”.

Đây là lời nói, hay chính là lời sám hối, lời tự than, tự trách mình quá phũ phàng, nhẫn tâm của một tấm lòng nhân hậu ! Từ những nét ngoại hình quằn quại đến những lời ăn năn, sám hối này, lão Hạc quả là một con người nặng tình nặng nghĩa, thuỷ chung, vô cùng trung thực. Từ ngày người con phẫn chí ra đi vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc luôn mang tâm trạng “mắc tội” bởi không lo liệu nổi hạnh phúc cho con. Lão cố dành tiền cho con, cố chăm sóc “cậu Vàng” như chăm sóc kỉ vật của con. Vậy mà giờ đây lão phải bán “cậu Vàng” cho người ta giết thịt, lão cảm thấy mình “mắc tội” nặng hơn, tội với con người, tội với cả con vật.

Tấm lòng người lão nông ấy bao la, sâu nặng biết nhường nào. Con chó Vàng sẽ bị người ta giết thịt. Lão Hạc dự cảm rõ điều đó. Đối với lão, dó là cái chết thứ nhất, một cái chết do chính lão gây ra. Nhưng, người đọc chúng ta ngày nay, suy ngẫm sâu xa một chút, sẽ thấu hiểu và xiết bao xót thương ông lão nông khốn khổ và nhân hậu ấy. Và chúng ta cũng hiểu rằng chính cái xã hội thực dân phong kiến bấy giờ đã đẩy lão Hạc và biết bao người nông dân khác vào bi kịch như lão Hạc. Vì hạnh phúc của một người con này, lão Hạc phải chứng kiến cái chết của một “người… con” khác, phải tự huỷ diệt một niềm vui, một kỉ vật thân thương của đời mình. Nêu sự việc lão Hạc bán chó, rồi đau khổ vật vã tự trách mình, ngòi bút Nam Cao đã lay động tận nơi sâu thẳm tình cảm bạn đọc chúng ta.

Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đó. Nhà văn tiếp tục lay động chúng ta bằng một sự việc tiếp sau dữ dội hơn, thống thiết hơn. Đó là việc lão Hạc tìm đến cái chết. Với cái chết lần thứ hai này, tấm lòng người lão nông thương con mênh mông, sâu nặng ấy mãi mãi toả sáng. Tìm hiểu về sự việc này, chúng ta thử hoá thân vào nhân vật ông giáo để lắng nghe lời lão Hạc nói và chứng kiến công việc ông lão làm. Sau những lời đắng cay về việc bán chó, lão Hạc rề rà, nhỏ nhẹ mà tha thiết, chân thành giãi bày hoàn cảnh của mình để nhờ ông giáo giúp cho hai việc. Việc thứ nhất: gửi ba sào vườn, khi anh con trai lão trở về thì ông giáo giao lại để anh có đất ở, có vốn mà sinh nhai. Việc thứ hai : gửi ba mươi đồng bạc (hai mươi nhăm đồng tích cóp tằn tiện hơn một năm trời và năm đồng vừa bán chó) để khi ông lão chết, nhờ hàng xóm chi tiêu cho việc ma chay…

Những điều lão Hạc thu xếp, nhờ cậy ông giáo thật là chu đáo. Nghĩ đến con, ông cụ luôn mong ước con được sống yên ổn„ hạnh phúc. Nghĩ về mình cụ luôn luôn tự trọng, không muốn phiền luỵ ai. Khi nghe lão Hạc trình bày, ông giáo bật cười bảo : “Sao cụ lo xa quá thế ? Cụ còn khoẻ lắm, chưa chết đâu mà sợ ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn..”. Ông giáo không thể biết được rõ ý nghĩa việc lão Hạc nhờ cậy. Còn chúng ta, đọc truyện, nhận rõ ổng cụ lão nông đó đã chuẩn bị cho cái chết của mình thật là bình tĩnh, chủ động, tự nguyện, tự giác. Thực ra lão đã âm thầm chuẩn bị cho cái chết của mình từ khi bán “cậu Vàng”, đúng như lời lão nói với ông giáo : “Tôi đã liệu đâu vào đấy… Thế nào rồi cũng xong”.

Như vậy, trong tình cảnh đói khổ, túng quẫn, lão Hạc đã định liệu cho “cậu Vàng” – con vật thân thương nhất – và bản thân mình một sự giải thoát. Với con chó thì hoá kiếp cho “để thành kiếp người”. Còn với mình, lão chết để thành kiếp gì ? Thật mịt mờ, bế tắc. Nhà văn Nam Cao cứ nhẹ nhàng dẫn dắt câu chuyện theo lời kể của ông giáo, đưa người đọc chúng ta từ sự việc này sang sự việc khác đầy hấp dẫn, bất ngờ. Sau khi nghe lời lão Hạc nói rằng : “Tôi đã liệu đâu vào đấy”, ông giáo đã cảm động bởi cách lo toan chu đáo, tấm lòng thành thực, vừa thương con, vừa tự trọng của lão Hạc thì được nghe Binh Tư kể việc lão Hạc xin bả chó… Ông giáo đã thốt lên : “Hỡi ôi ! Lão Hạc”. Người đọc cũng ngỡ ngàng, sửng sốt, tưởng rằng lão Hạc sẽ làm một việc xấu xa, đáng buồn như việc Binh Tư thường làm : đánh bả chó, rồi thịt chó uống rượu. Vẻ đẹp của hình tượng lão Hạc bỗng mờ đi, như cuộc sống lúc bấy giờ “cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Câu chuyện tưởng chừng ngoặt sang hướng khác. Những dòng chữ lời văn như ngưng đọng lại, Căng thẳng, hồi hộp!

Nhưng rồi, đến phần cuối của câu chuyện, tất cả đã ùa ra. Lão Hạc đã chọn một cái chết dữ dội, bất ngờ. Chúng ta hãy vào nhà lão Hạc. Một cảnh tượng rùng rợn thảm thương.bày rạ trước mắt ta : “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết…”. Dồn dập trong mấy câu miêu tả là các từ tượng hình “vật vã”, “rũ rượi”, “xộc xệch”, “long sòng sọc”, và các cụm động từ mạnh như “sùi ra”, “giật mạnh”, “nảy lên”, “đè lên”,… đã cực tả một cái chết thật dữ dội, đau đớn. Tại sao lão Hạc không chọn một cái chết khác êm dịu, lặng lẽ, âm thầm ? Đối chiếu với cái chết thứ nhất của “cậu Vàng”, nhìn thoáng bên ngoài, ta cảm thấy cái chết của. lão Hạc như có những nét tương tự. “Cậu Vàng” bị lão Hạc đánh lừa, cho ăn cơm, rồi bị hai người (“thằng Mục” và “thằng Xiên”) đè xuống, trói lại. Lão Hạc cũng bị hai người đàn ông lực lưỡng “đè lên người”. Biết là mình sẽ chết, “cậu Vàng” kêu “ư ử”, lão Hạc thì “tru tréo”, “vật vã”,…

Phải chăng khi chọn cho mình cái chết dữ dội thảm thương này, người lão nông ấy như có ý tự trừng phạt mình, chia sẻ nỗi đau với con vật thân yêu như ruột thịt. Bởi vì, cả đời ông lão sống trung thực, chưa đánh lừa ai. Lần đầu tiên lão làm một việc xấu xa là đánh lừa “cậu Vàng”, người bạn thân thiết, niềm hạnh phúc, niềm vui của chính mình. Lão đã lừa để con chó bị chết thì giờ đây lão cũng phải chết theo kiểu con chó bị lừa. Điều này càng chứng tỏ lão Hạc có lòng tự trọng rất cao, ứng xử trung thực vô ngần. Và cũng chứng tỏ ngòi bút nhà văn Nam Cao sắc lạnh, tỉnh táo vô cùng. Nam Cao rất thương con người, tôn trọng con người, đồng thời luôn đòi hỏi cao ở con người. Ông đã đặt nhân vật lão Hạc vào những cuộc lựa chọn khắc nghiệt : chọn hai cái chết. Cái chết thứ nhất tuy không đau đớn về thể xác nhưng lại đau đớn, day dứt về tinh thần. Còn cái chết thứ hai, tuy đau đớn thể xác nhưng dường như ông lão đã được giải thoát và… thanh thản về tinh thần vì lão đã trả hết nợ đời, nợ với con chó Vàng, nợ với đứa con trai tội nghiệp phải bỏ nhà ra đi.

Có thể nói, đọc truyện Lão Hạc, chúng ta thấy nổi bật lên, ấn tượng mạnh mẽ nhất là câu chuyện về hai cái chết: cái chết của con chó Vàng do lão Hạc gây nên và cái chết của lão Hạc do tự lão lựa chọn. Cả hai cái chết này đều bắt nguồn từ tình cảm người cha thương con mênh mông, sâu nặng. Lão Hạc phải bán “cậu Vàng” – cũng là cách tự huỷ một niềm vui, một khát vọng để không phải tiêu lẹm vào số tiền dành cho con. Lão Hạc tự tử cũng nhằm không muốn sống thừa, sống lay lắt, vô vị mà ăn lẹm vào số vốn liếng, mảnh đất đợi con về… Người cha ấy đã hi sinh cả cuộc đời mình cho hạnh phúc của con. Người lão nông ấy đã sống một cuộc đời đau khổ nhưng thật trong sáng, đáng cảm thương và trân trọng.

Cùng với nhân vật lão Hạc, chúng ta bắt gặp nhân vật ông giáo (có thể coi là tác giả). Nhờ ông giáo, nhờ nhà văn kể chuyện, chúng ta càng thấm thía hơn cuộc đời đau khổ của lão Hạc. Khi ông giáo nghĩ “Cuộc đời đáng buồn, nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”, chúng la hiểu rằng Nam Cao rất xót xa, căm giận cái xã hội tối tăm ngột ngạt bấy giờ. Xã hội ấy đã đẩy những người có nhân cách cao đẹp như lão Hạc vào tình cảnh đói nghèo, bế tắc, phải chết thảm thương. Khi ông giáo than thở : “Chao ôi ! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn ;… không bao giờ ta thương…”, chúng ta càng thấu hiểu suy nghĩ sâu sắc, mang tính triết lí và tình thương bao la đậm chất nhân văn của Nam Cao. Và chúng ta cũng rút ra được bài học thiết thực về cách nhìn, cách ứng xử mà các nhà nghiên cứu gọi là “vấn đề đôi mắt”…

Tóm lại, truyện ngắn Lão Hạc đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận đau thương và phẩm chất cao quý của người nông dân cùng khổ trong cuộc đời cũ. Cuộc đời ấy là xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta, giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 mà “hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở”. Lão Hạc, vì tình thương con sâu nặng đã chấp nhận những giá lạnh cuộc đời để nhường chút hơi ấm của tấm chăn hạnh phúc cho người con xa nhà.

Cũng qua câu chuyện về lão Hạc, nhà văn Nam Cao thể hiện lòng thương yêu, thái độ trân trọng đối với những con người bất hạnh mà biết sống cao thượng. Tác phẩm này cho thấy tài năng của nhà văn qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện ; kể các sự việc, khắc hoạ nhân vật sinh động, có chiều sâu tâm lí, cách kể linh hoạt, hấp dẫn, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà trĩu nặng những cảm xúc và suy nghĩ lắng sâu.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 4

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 5

Nhận xét về cách viết của Nam Cao trong những truyện ngắn, giáo sư Hà Minh Đức viết: “Viết về những nhân vật này, ngòi bút Nam Cao không lạnh lùng khách quan mà tha thiết gắn bó; không châm biếm, mỉa mai mà chân thành, xúc động. Tác giả xem mình cũng là người trong cuộc”.

Nhận xét về cách viết của Nam Cao trong những truyện ngắn về những người nông dân tột cùng thống khổ và đau thương, giáo sư Hà Minh Đức viết: “Viết về những nhân vật này, ngòi bút Nam Cao không lạnh lùng khách quan mà tha thiết gắn bó; không châm biếm, mỉa mai mà chân thành, xúc động. Tác giả xem mình cũng là người trong cuộc”. Trong số những tập truyện ngắn của Nam Cao, truyện  Lão Hạc  là một điển hình về bút pháp như vậy của tác giả viết về những người nông dân đau khổ và lầm than vô hạn.

Viết về lão Hạc – nhân vật chính trong truyện, một người nông dân tột cùng nghèo khổ và đau thương – ngòi bút của Nam Cao đã bộc lộ một tình cảm tha thiết gắn bó. Khi chưa hiểu rõ tâm tình của lão Hạc thì giọng điệu của ông giáo dưới ngòi bút của nhà văn tưởng chừng vẫn chỉ là viết về một loại Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận nào đó: “Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi… Lão nói là nói để đấy thôi… Làm quái gì có một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế”. Đôi lúc, ông còn bộc lộ sự tự tôn mình, coi thường người nghèo khổ: “Lão quý con chó vàng của lão đã thấm vào đâu so với tôi quý năm quyển sách của tôi”. Một sự lạnh lùng khách quan: Tôi “dửng dưng” nhìn lão để rồi mộng tưởng về một cái thời “say mê”, đẹp đẽ, chăm chỉ và đầy “cao vọng” của riêng mình.

Ta bắt đầu cảm thấy một bóng dáng đơn điệu của làng quê ông giáo Thứ trong truyện Sống mòn: con người lạnh nhạt, bới móc nhau… Nhưng tác giả không dừng lại ở đó, ông đưa những trang viết về tình cảm của ông giáo đối với lão Hạc tiến triển một cách chậm rãi lần theo những lời kể của ông lão, khiến người đọc ngày càng thấy sự rung động, sâu xa của cõi lòng tác giả: Người con trai lão thất tình, bỏ đi phu cao su, để lại cho người cha vài đồng bạc để “ăn quà”, một con chó và mảnh vườn nho nhỏ, biệt tích, để cho lão cứ ngóng trông, dành dụm, chắt chiu mà nào biết bao giờ nó về! Vợ mất, con biệt xứ, lão cô đơn giữa tuổi già và cái chết đang dần đến. Ngòi bút của nhà văn lại bùi ngùi, xúc động: “Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả phải buồn”. Vì vậy mà “những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ bồn một chút”, nhắc đến con “lão rân rấn nước mắt”. Đến đây thì ông giáo đã thốt lên: “Bây giờ thì tôi không xót xa năm quyển sách của tôi quá như trước nữa”.

Trước những đe dọa rình rập, những mất mát chồng chéo lên nhau, ông giáo đành an ủi lão Hạc mà ta nghe thấy biết bao đau xót, thương cảm: “Lão Hạc ơi ! ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?”. Thì ra tác giả đâu có thờ ơ, ông thấu hiểu con người tốt đẹp ấy, mỗi lời kể như đượm nỗi xúc động: Thương con, lão không muốn bán đi con chó – kỉ vật của con. Nhưng nuôi nó thì tốn mà lão không muốn phải tiêu vào tiền lão đã dành dụm cho con. Nhưng cái nghèo khổ cứ đến: “làng mất vé sợi”, “Lão Hạc không có việc”… Sự điêu đứng cứ dồn dập đến. Ngòi bút nhà văn trở nên xót xa cho lão Hạc. Trước cảnh lão khóc vì để con chó bị bắt, ngòi bút Nam Cao bỗng như trào lên nước mắt. Ông giáo hỏi như để che giấu nỗi đau: “Thế nó cho bắt à”, rồi đau đớn và phủ nhận, ông kết luận: “Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ !”, đều khổ, đều cơ cực, kiếp người không khác kiếp con chó. Số phận một con chó chấm dứt bằng một cái chết bi thảm thì con người cũng không hơn, còn dữ dội gấp trăm lần.

Nhà văn cảm thông tha thiết với “những người cùng khổ ấy”, muốn san sẻ nỗi cực nhục với họ, bởi “một chút âu yếm, một chút tình thương cũng đủ để nâng đỡ họ” (Thạch Lam). Nhưng Nam Cao còn sâu sắc hơn, ông giận cuộc đời gian ác đã cướp đi bao người lương thiện như lão Hạc, nên ông cầm bút khóc cho những con người đang quằn quại sống và quằn quại chết đó.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 3

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 4

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những sáng tác để lại trong long người đọc nhiều day dứt và ám ảnh. Mỗi câu chuyện của ông đều mang dáng dấp của một đời người, một kiếp người lầm than trong xã hội. Nam Cao tập trung khai thác số phận người nông dân trước cách mạng tháng Tám, bế tắc, cùng cực đã khiến cho cuộc đời họ chìm vào nước mắt. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những câu chuyện cảm động về hình ảnh nghèo khó của người nông dân, đồng thời toát lên được vẻ đẹp tinh thần đáng quý của họ. Đây mới chính là giá trị nhân văn của tác phẩm này.

Nam Cao lấy bối cảnh lịch sử là thời kỳ đất nước đang chìm trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, đói khổ, xơ xác. Ông đã xây dựng nên nhân vật nông dân điển hình trong một xã hội điển hình. Qua nhân vật này tác giả muốn lột tả chế độ thực dân phong kiến và cuộc sống bần hàn của người nông dân. Tác giả lựa chọn ngôi kể độc đáo, theo ngôi thứ ba, theo lời của ông Giáo, hang xóm của lão Hạc. Bơi vậy câu chuyện thêm sinh động, chân thực và mang tính khách quan hơn. Người đọc có thể quan sát, theo dõi cuộc đời của một con người phải trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến cố.

Những câu văn giản dị cứ thế đi vào long người đọc một cách chân thật và hiền hòa nhất. Từng mảnh đời cứ chấp chới hiện lên dật dờ, nghèo đói nhưng trong họ ánh lên sự nhân hậu, vị tha và lòng yêu thương tha thiết. Cuộc đời của lão Hạc thật là buồn, buồn đến thê thảm. Vợ lão mất sớm, lão ở với đứa con trai. Nhưng từ khi đứa con trai đi làm điền cao su thì lão không còn biết tin tức gì về con nữa. Lão thương con, rồi lão thương cho chính cuộc đời của mình chẳng làm được gì cho con. Lão Hạc là hiện thân của người nông dân hiền lành, lương thiện, chất phác, chăm chỉ làm ăn. Ai thuê lão làm gì, lão đều làm. Nhưng cuộc đời khắc nghiệt, cuộc sống khắc nghiệt, sức khỏe của lão yếu đi, lão không muốn cậy nhờ con và hàng xóm.

Túng quẫn, bế tắc, lão đã nghĩ đến việc bán cậu Vàng. Nhưng tình cảm của lão dành cho cậu Vàng quá thân thiết, nên lão không nỡ, bao nhiêu lần mà lão không bán nổi. Sự giằng xé trong tâm hồn đã khiến cho lão ngày càng bệnh tật, ốm đau. Nhưng rồi vì cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì nuôi cậu Vàng. Lão không muốn tiêu vào những đồng tiết tiết kiệm lão dành dụm cho đứa con trai từ việc bán hoa lợi và thu được từ mảnh vườn ba sào bé tý. Vậy là lão đứt ruột bán cậu vàng, nói đúng hơn là lão phải lừa để mới có thể bán cậu Vàng.

Cảnh bán chó thực sự là một cảnh tượng xúc động, đầy dằn vặt và đau đớn của lão Hạc. Lão đã tự thú nhận “già bằng này tuổi đầu còn đi lừa một con chó”. Ông giáo đã kể lại cảnh tượng đó “Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra ngoài. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc”. Một đoạn văn tràn đầy tình cảm, một đoạn văn khiến người đọc không cầm nổi nước mắt.

Một người nông dân chất phác, ngay cả trong việc bán chó cũng vậy. Lão không muốn cậu Vàng đau lòng, muốn nó ra đi thanh thản nhất, nhưng thực ra lòng lão đang quá rối bời. Những tâm sự của lão Hạc khiến người đọc xúc động, cảm thông và rất đỗi khâm phục. Ông dù nghèo nhưng vẫn quyết dành tình cảm cho đứa con trai duy nhất. Lão Hạc yêu thương con hết mực, quyết định hi sinh vì con. Bởi vậy lão mới quyết định kết liễu cuộc đời mình để không liên lụy đến con mình. Một người cha yêu thương con hết mực và là một ngươi suy nghĩ quá thấu đáo, chu toàn. Lão đã định sẵn cho mình một cái chết thanh thản, nhẹ nhàng nhất. Lão đã cậy nhờ chuyện ông giáo sau khi chết giao lại mảnh vườn cho con trai và để lại 30 đồng bạc lẻ.

Chi tiết ông Giáo kể với vợ về chuyện lão Hạc thì vợ ông đã nói “Cho lão chết! Ai bảo có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ. Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão. Chính con mình cũng đói”. Bất lực ông giáo chỉ biết ngậm ngùi than thở: “Chao ôi, đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ối…toàn những cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ thương”. Thực sự đây là một đoạn hội thoại có giá trị nhân văn sâu sắc, khẳng định một thái độ sống về những con người ở xung quanh mình. Có lẽ Nam Cao ngầm thương xót cho những mảnh đời bất hạnh, sống hiền lương nhưng lại bị ruồng bỏ.

Cái chết của lão Hạc là một cái chết đầy bi kịch, thức tỉnh biết bao nhiêu con người. Cái chết đó đã phản ảnh hiện thực xã hội phong kiến nhiều bất công, đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Sự bế tắc, túng quẫn đã dẫn đến cái chết bi thảm đó. Ông giáo đã có suy nghĩ sai lầm thì nghe bảo lão Hạc sang xin bả chó. Nhưng thực sự là ông đang muốn kết liễu đời mình, không muốn làm gánh nặng cho con trai.

Tại sao lão lại chọn cái chết đau đớn, đầy thương tâm đó. Có lẽ đây là điều mà rất nhiều người hỏi, nhưng có lẽ có nguyên nhân của nó. Phản ánh sự bế tắc đến cùng cực xã hội phong kiến, đẩy con người vào chỗ chết. Có lẽ lão Hạc muốn trừng phạt chính bản thân mình vì đã đi “lừa một con chó”, đồng thời lão muốn yêu thương đứa con trai đến giây phút cuối cùng. Cái chết đó chỉ ông Giáo và Binh Tư mới hiểu.

Truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao thực sự ám ảnh đến người đọc vì hình ảnh người nông dân cùng cực trong xã hội phong kiến. Đồng thời khẳng định vẻ đẹp tinh thần lấp lánh trong con người họ.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 2

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 3

Nam Cao (1915 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, huyện Lí Nhân, tinh Hà Nam. Ông được đánh giá là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng, là bậc thầy của truyện ngắn Việt Nam. Hình ảnh nông thôn bùn lầy nước đọng, tiêu điều xơ xác vì đói khổ hiện lên thường xuyên trong tác phẩm của ông như một nỗi ám ảnh không nguôi. Nam Cao viết nhiều về nạn đói. Cái đói ảnh hưởng không ít tới nhân cách nhưng trong cảnh đói khát thê thảm, phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Một trong những tác phẩm thể hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao là truyện ngắn Lão Hạc. Nhân vật chính là một lão nông nghèo khổ, cuộc đời gặp nhiều bất hạnh. Tuy vậy, lão vẫn giữ được bản chất thật thà, đôn hậu, tình thương yêu con tha thiết, đức hi sinh cao cả và lòng tự trọng đáng kính phục.

Qua nhân vật này, Nam Cao giúp người đọc thấy rõ tình cảnh khốn cùng và số phận đáng thương của nông dân Việt Nam trong chế độ thực dân phong kiến tàn ác đương thời. Nhân vật đứng ra kể chuyện là ông giáo, người hàng xóm thân thiết của lão Hạc. Nhờ vậy mà câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực. Tác giả dẫn dắt người đọc vào cuộc, cùng sống, cùng chia sẻ vui buồn với nhân vật. Do đó mà người đọc có cảm giác như mình đang được chứng kiến tận mắt diễn biến của câu chuyện bi thảm này.

Tác giả kết hợp giữa kể với tả, đan xen hiện tại và quá khứ, hiện thực với trữ tình. Giọng kể biến đổi linh hoạt tuỳ theo tình huống. Cảm xúc phần lớn được thể hiện gián tiếp suốt chiều dài truyện nhưng cũng có lúc bộc lộ trực tiếp qua những câu cảm thán đầy xót xa, ái ngại, ẩn chứa triết lí sâu sắc về cuộc sống, về thân phận con người. Gia cảnh của lão Hạc thật đáng buồn, vợ lão mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phẫn chí bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng tin tức gì. Lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho con. Lão sẽ sung sướng biết bao nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã bị phụ tình chỉ vì quá nghèo.

Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau đớn của con. Con trai lão đã vâng lời bố, không bán mảnh vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con, lão càng xót xa đau đớn vì đã không giúp được con thoả nguyện. Lão Hạc mỏi mòn chờ con về, ngày ngày quanh quẩn làm thuê, làm mướn kiếm ăn. Dù đói, lão nhất quyết giữ mảnh vườn và không ăn vào số tiền dành dụm cho con. Sau trận ốm kéo dài, lão thấy người yếu đi ghê lắm. số tiền tích cóp bấy lâu nay đã cạn kiệt. Rồi trận bão vừa qua đã phá sạch sành sanh hoa màu trong vườn. Giá gạo thì cứ cao mãi lên mà lão Hạc thì chẳng còn được ai thuê mướn. Thế là lão lặng lẽ đi đến một quyết định quan trọng. Sau khi dằn lòng bán con chó Vàng thân thiết, lão sang nhờ cậy ông giáo một việc…

Trước tiên, lão kể chuyện bán con chó Vàng cho ông giáo nghe. Lão Hạc rất quý con chó vì nó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai. Lão trìu mến gọi nó là cậu Vàng và cho nó ăn cơm bằng chiếc bát lành lặn. Với lão, con Vàng là bầu bạn sớm hôm. Mỗi lần nhớ con trai, lão lại thì thầm trò chuyện với nó cho khuây khỏa. Vì gắn bó như thế nên đã mấy lần định bán con Vàng mà lão vẫn không bán nổi. Cuối cùng, cũng vì thương con mà lão phải dứt khoát chia tay với nó. Lão nghèo túng quá! Đến Cơm cũng chẳng có mà ăn, lấy gì để nuôi cậu Vàng? Lão không muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai từ việc bán hoa lợi thu được từ mảnh vườn ba sào bé tí.

Lão Hạc tính đi tính lại và đành bán cậu Vàng để khỏi tốn kém, nhưng lòng lão thì đau đớn, xót xa. Lão đã kể cho ông giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ, đằn vặt, cứ tự trách mình vì cảm thấy mình có lỗi: già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Cả đời, ông lão nhân hậu này nào đã nỡ lừa ai! Thái độ và cử chỉ của lão Hạc mới đáng thương làm sao: Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc… Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi. Trước đây, chỉ vì nghèo mà lão không cưới được vợ cho con thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão phải buộc lòng cư xử không đàng hoàng với một con chó.

Nhưng không chỉ có vậy. Qua từng trang truyện, chúng ta còn hiểu thêm về một lão Hạc đôn hậu, chất phác. Suốt đời lão sống quanh quẩn trong lũy tre làng nên những suy nghĩ, tính toán của lão rất đơn giản, thật thà. Lão tìm đến ông giáo để chia sẻ tâm sự và quan trọng hơn là tìm một chỗ dựa tinh thần: … Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẻ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai việc. Việc thứ nhất: lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn dại lắm, nếu không có người trông nom thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở cái làng này; tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lí luận, người ta kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão; lão viết văn tự nhượng lại cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tôi trông coi cho nó… Việc thứ hai: lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào, con không có nhà, lỡ chết không ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được hăm nhăm đổng bạc với năm đồng bạc vừa bán chó là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tôi, để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả…

Nghe những lời tâm sự của lão Hạc, không ai có thể kìm nổi xót thương, thông cảm và khâm phục một con người bất hạnh vì nghèo đói nhưng không hề nghĩ đến mình mà dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo giữ hộ mảnh vườn và gửi ông giáo ba mươi đồng để lo chôn cất. Lão không muốn làng xóm phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại chẳng oán trách lão sao? Không để phiền lụy đến mọi người, đó cũng là một cách giữ gìn phẩm giá. Ông lão bề ngoài có vẻ gàn dở nhưng bên trong lại có phẩm chất đáng quý nhường nào!

Xét về tuổi tác, lão Hạc còn có thể sống lâu, nhưng lão chỉ còn vẻn vẹn ba mươi đồng bạc, nếu tiếp tục sống thì phải ăn vào chút vốn liếng ít ỏi, cho nên lão đã chọn cái chết để bảo toàn căn nhà và mảnh vườn cho con trai. Cái chết tự nguyện này xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà sâu nặng, từ lòng tự trọng đáng kính của lão Hạc. Lão Hạc trò chuyện với ông giáo bằng giọng lễ phép, cung kính có phần quá mức. Đó là cách bày tỏ thái độ kính trọng đối với người hiểu biết và nhiều chữ: Đã đành rằng thế, nhưng tôi bòn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?… Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo! Ông giáo có nghĩ cái tình tôi già nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi gửi.

Cảnh ngộ đã đến lúc bế tắc, nhưng lão vẫn giữ nếp sống trong sạch, tránh xa lối đói ăn vụng, túng làm càn: Luôn mấy hôm tồi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thinh thoảng một vài củ rảy hay bữa trai, bữa ốc. Khi ông giáo kể cho vợ nghe tình cảnh đáng thương của lão Hạc thì bà gạt phắt đi: – Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm khổ lão chứ ai làm lão khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói… Bất lực, ông giáo chi biết ngậm ngùi than thở: Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương…

Cái chết bi thảm của lão Hạc là biểu hiện cao nhất của đức hi sinh. Chính vì thương con, muốn giữ cho con chút vốn giúp nó thoát cảnh đói nghèo mà lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là một sự lựa chọn tự nguyện và dữ dội, đầy bi kịch. Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến việc coi cái chết như một hành động giải thoát. Chi tiết này phản ánh số phận bi thảm, bế tắc của nông dân nghèo trong xã hội thực dân phong kiến đầy áp bức bất công. Thực ra, lão Hạc âm thầm chuẩn bị cho cái chết của mình từ sau khi bán cậu Vàng. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc hôm qua sang xin bả chó, ông giáo trố to đôi mắt, ngạc nhiên: Hỡi ơi lão Hạc!… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn.

Đây là một chi tiết nghệ thuật quan trọng có tác dụng đánh lạc hướng để gây bất ngờ, đảo ngược những ý nghĩ tốt đẹp về lão Hạc của ông giáo và mọi người. Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn vì nó đã đẩy con người lương thiện như lão Hạc vào cảnh dám làm liều như ai hết. Nghĩa là con người vốn nhân hậu, giàu lòng tự trọng đến thế mà giờ đây cũng bị tha hoá bởi miếng ăn. Câu nói mập mờ đầy mỉa mai của Binh Tư đã đẩy tình huống truyện lên đến đỉnh điểm: Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó… Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão… Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu. Chứng kiến cái chết vật vã đau đớn vì ăn bả chó của lão Hạc; mọi nghi ngờ trong lòng ông giáo tan biến: Không! Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác.

Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn bởi còn có những con người trong sạch như lão Hạc, nhưng lại đáng buồn ở chỗ những con người có nhân cách cao đẹp như lão Hạc mà lại không được sống. Tại sao ông lão đáng thương, đáng kính như vậy mà phải chịu cái chết bi thảm đến thế này?! Người đọc không khỏi băn khoăn về cách chọn cái chết của lão Hạc là tự tử bằng bả chó. Sao lão không chọn cái chết lặng lẽ, êm dịu hơn? Ông lão nhân hậu trung thực này suốt đời chưa đánh lừa một ai. Lần đầu tiên trong đời lão bắt buộc phải lừa một con chó vô tội – người bạn thân thiết của mình. Dường như cách lựa chọn này chứa đựng ý muốn tự trừng phạt. Nó càng chứng tỏ đức tính trung thực, lòng tự trọng đáng kính phục của lão Hạc. Vì thế cái chết dữ dội này càng gây ấn tượng mạnh ở người đọc.

Cái chết vật vã, đau đớn của lão Hạc được Nam Cao miêu tả với lòng xót thương vô hạn: Tôi xồng xộc chạy vào. Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu.

Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh lão Hạc luôn nhắc nhở chúng ta nhớ đến những con người nghèo khổ mà trong sạch với một tình cảm xót thương và trân trọng.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 1

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 2

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng. Tác phẩm của ông thường gắn liền với hình ảnh nông thôn đói khổ. Trong hoàn cảnh đó, ông vẫn nhìn thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân nghèo đang âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy. Nhân vật chính là một lão nông nghèo khổ, bất hạnh nhưng vẫn mang những phẩm chất cao quý đáng trân trọng.

Truyện được kể qua lời ông giáo – người hàng xóm thân thiết của lão Hạc – đã tạo cho câu chuyện thêm phần chân thực, sinh động. Qua ông giáo, ta được biết gia cảnh buồn của lão Hạc: vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất lại phẫn chí do bị phụ tình vì quá nghèo nên bỏ vào Nam làm phu đồn điền cao su, biền biệt một năm nay chẳng tin tức gì. Kỉ vật duy nhất con trai lão để lại là con chó mà lão vẫn hay trìu mền gọi là cậu Vàng. Mỗi lần nhớ con, lão lại ngồi nói chuyện với nó cho khuây khỏa. Vì thế, có thể nói nó là một người bạn tri kỉ của lão. Nhưng rồi, cảnh đói kém bủa vây. Một trận ốm đã làm cho số tiền tích cóp của lão cạn dần. Còn mảnh vườn nhưng lão không thể bán được vì lão muốn để dành nó cho con trai. Vì vậy, sau nhiều lần định bán con Vàng, lần này lão dứt khoát chia tay nó. Lão không muốn tiêu phạm vào những đồng tiền ít ỏi mà lão để dành cho con trai.

Cảnh lão bán cậu Vàng thật xót xa. Cả đời lão chưa dám lừa một ai. Vậy mà lần này lão lại đi lừa một con chó – điều này làm lão đau lòng và tội lỗi: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”

Lão tìm đến ông giáo để giãi bày lòng mình. Lão muốn nhờ ông giáo trông coi hộ lão cái vườn đến khi con trai lão trở về. Rồi lão cũng nhờ ông giáo lo liệu ma chay cho mình nếu sau này già yếu. Những suy nghĩ, tính toán của lão thật đơn giản, thật thà. Nhưng mọi thứ đều được lão sắp xếp một cách cẩn thận, chi tiết. Lão vừa lo cho con trai mình, rồi lại lo đến cái chết của mình làm ảnh hưởng tới làng xóm. Điều này như một dự báo sẽ có một biến cố lớn xảy đến với lão.

Từ ngày bán cậu Vàng, và cũng từ khi nói chuyện, nhờ cậy ông giáo xong, nếp sống sinh hoạt của lão cũng có sự thay đổi: “Lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc.” Mặc dù vẫn còn ba mươi đồng bạc đó, nhưng lão không muốn là ảnh hưởng tới cái “gia tài” của con. Xuất phát từ tình thương của một người cha đã khiến cho lão phải chịu cảnh sống đói khổ. Nhưng không phải vì thế mà lão nảy sinh thói hư tật xấu. Lão vẫn giữ cho mình nếp sống “đói cho sạch, rách cho thơm”.

Cuộc sống bế tắc đã đẩy lão Hạc tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Trước hết, lão sang nhà Binh Tư xin ít bả chó. Biết tin, ông giáo thấy vô cùng đau lòng: “Hỡi ơi lão Hạc!… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư?” Ai cũng cứ ngỡ rằng rồi đây, lão sẽ sa chân vào con đường tội lỗi khi nghe những lời Binh Tư kể lại: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả chó… Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão…

Lão định cho nó xơi một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.” Nhưng rồi cái chết của lão đã làm đảo lộn suy nghĩ của tất cả mọi người: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư là hiểu.” Lão vẫn giữ cho bản thân mình trong sạch, nhưng cái chết của lão thật đau đớn, bi thảm.

“Lão Hạc” đã cho chúng ta thấu hiểu được hoàn cảnh khổ đau, khốn cùng, bế tắc của người nông dân nghèo có tâm hồn cao đẹp trong chế độ thực dân phong kiến tàn ác đương thời. Đồng thời, truyện cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta phải biết quan tâm, giúp đỡ nhưng con người có số phận éo le hơn mình.

Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” số 1

Tác phẩm “Lão Hạc” thể hiện sự chân thực và cảm động về số phận đau thương của người nông dân trong xã hội phong kiến cũ và ca ngợi những phẩm chất cao quí của họ thông qua hình tượng nhân vật Lão Hạc.

Đăng bởi: Thị Cẩm Liên Trần

Từ khoá: 12 Bài văn phân tích tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao hay nhất

10 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm “Người Trong Bao” Của Sê

An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp (1860-1904) là đại biểu lớn cuối cùng của văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX, nhà cách tân thiên tài về hai thể loại truyện ngắn và kịch nói. Truyện ngắn “Người trong bao” được sáng tác năm 1898 trong thời gian nhà văn dưỡng bệnh ở thành phố I-an-ta, trên bán đảo Crưm, biển Đen. Qua hình tượng người trong bao tác giả phê phán sâu sắc lối sống hèn nhát, bạc nhược, bảo thủ và ích kỉ của một bộ phận tri thức Nga cuối thế kỉ XIX từ đó nhà văn khẩn thiết thức tỉnh mọi người: Không thể sống mãi như thế được. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm mà chúng mình đã tổng hợp dưới bài viết sau đây.

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 6

Sê-khốp được mệnh danh là con linh điểu của buổi tịch dương trên đòng cỏ dại nước Nga xưa, là văn hào chói sáng lên lâu đài nhân đạo. Chính tấm lòng của một nhà văn chân chính và những tác phẩm văn học giá trị phản ánh chân thực cảm động số phận người dân và đất nước Nga đã chinh phục được trái tim của độc giả trên khắp mọi nơi, trong số ấy, “Người trong bao” là một trong số những truyện ngắn đặc sắc làm nên tên tuổi của ông.Người trong bao được sáng tác năm 1898, thời kì này xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nặng nề của Sa Hoàng cuối thế kỉ 19. Môi trường xa hội ấy đã đẻ ra lắm kiểu người quái dj mà Bê-li-cốp nhân vật chính trong truyện là hình tượng điển hình cho số phận bi kịch của những người dân Nga lúc bấy giờ.

Không chỉ thế hắn còn sợ giao tiếp, khi đến nhà ai chỉ ngồi 15 phút không nói gì rồi ra về chứng tỏ hắn sợ cô độc ấy vậy mà hắn lại sợ phải giao tiếp và không muốn chịu trách nhiệm với lời nói, và hành động của mình. Trong tình yêu hắn cũng muốn cầm tù tình yêu của mình, hắn sợ cái mới vì chỉ vì nhìn thấy Va-ren-ca đi xe đạp mà sợ hãi, giật mình và hoảng hốt đến tận nhà để nhắc nhở.

Điều ấy chứng tỏ hắn sợ mọi thứ đến cả những điều không hề đáng sợ, hắn chỉ nô lệ vào cái cũ, không dám thay đổi, như thế hắn đã chết ngay cả khi đang sống, từng giờ, từng phút trong chiếc bao sợ hãi hắn đang tự tạo ra và bị bầu không khí ngột ngạt của xã hội Nga Hoàng đẩy vào.

Để qua hình tượng điển hình ấy, Bê-li-cốp phản ánh chân thực đến bộ mặt xã hội Nga lúc bấy giờ, người dân phải sống trong nỗi sợ và sự cưỡng chế nặng nề đến ngạt thở, qua đó khát khao muốn thay đổi và hướng đến một thế giới tốt đẹp hơn, không bị cầm tù và giam hãm trong chiếc bao nào cả.

Ngôn ngữ của truyện chân thực, chính xác, giàu tính thời sự điểm trúng được những diễn biến tâm lí tinh vi và phức tạp của nhân vật. kết cấu truyện lồng trong truyện giúp câu chuyện trở nên phức tạp, hấp dẫn và lôi cuốn đầy kịch tính, đồng thời thấy được tài năng của tác giả. Khẳng định được tài năng bậc thầy của cây bút xuất sắc trên mảng truyện ngắn.

Qua sự sáng tạo và xây dựng những tình huống, chi tiết và hình tượng điển hình ở tác phẩm Người Trong bao, nhà văn Nga vĩ đại Sê-khốp đã gửi gắm đến chúng ta hình ảnh người dân Nga phải sống trong chế độ Nga Hoàng nặng nề trì trệ như thế nào; đồng thời bày tỏ niềm xót thương, đồng cảm và lời kêu gọi đổi thay của tác giả. Chính những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc ấy đã giúp tác phẩm sống mãi trong lòng độc giả.

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 4

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 6

An – tôn Páp – lô – vích Sê – khốp là nhà văn Nga kiệt xuất, ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình buôn bán nhỏ ở thị trấn Ta – gan – róc bên bờ biển A – dốp. Ông đã để lại hơn 500 truyện ngắn và truyện vừa, trong đó có nhiều tác phẩm đặc sắc. Những tác phẩm của ông rất giản dị nhưng lại đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội. Người trong bao là truyện ngắn nổi tiếng của ông, câu chuyện kể về một con người mắc chứng bệnh sợ hãi, sống, chết đều thảm hại.

Truyện kể về nhân vật Bê – li – cốp, một giáo viên dạy tiếng Hi Lạp có cuộc sống dị thường và tôn sùng quá khứ. Anh ta mắc chứng sợ hãi nên không bao giờ dám bộc lộ ý nghĩa cá nhân của mình trước người khác. Anh ta thường đi giày cao su, che ô, mặc quần áo kín mít, đeo kính đen, đêm ngủ thì trùm chăn kín mít cả mặt để tạo cảm giác an toàn. Trong một lần, Bê – li – cốp định ngỏ lời cầu hôn với Va – ren – ca, chị gái của đồn nghiệp thì đã có kẻ nào đó vẽ bức tranh châm biếm về anh. Hôm sa thì anh ta lại nhìn thấy Va – ren – ca cùng Cô – va – len phóng xe rất nhanh ở ngoài đường, anh đến để góp ý nhưng đã khiến cho Cô – va – len nổi nóng rồi đẩy anh xuống cầu thang khiến anh ngã lộn nhào. Vừa lúc đó thì Va – ren – ca về, cô nghĩ anh tự ngã nên đã đứng cười một cách nhạo bang. Từ đó khi ai hỏi anh ta gì thì anh ta chỉ trả lời có hoặc không, một tháng sau thì anh ta chết.

Trong nhà đề, tác giả đã đặt cho đứa con tinh thần của mình là “Người trong bao” chỉ với 3 từ ngắn ngủi nhưng nó đã hiện lên một phong thái của một con người ẩn dật, lo sợ, lúc nào cũng cần một cái gì đó che chắn, bảo vệ mình khỏi bị ảnh hưởng bởi những thứ đến từ bên ngoài. Cái bao đó là tác giả muốn đặt tới với nhân vật Bê – li – cốp để nói lên tính cách, lối sống phổ biến trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX.

Câu chuyện xoay quanh một con người với cuộc sống khép kín và tư tưởng cổ hủ đến lạc hậu vì nỗi sợ hãi và chẳng chịu chia sẻ với ai. Đó không phải là một cuộc sống tốt đẹp, nó khiến cho con người dễ rơi vào trạng thái trầm cảm và sợ hãi với mọi thứ. Có thể khái quát con người và tính cách cửa Bê-li-cốp bằng những hình ảnh, từ ngữ như hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong “bao”, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, mãn nguyện về lối sống đó.

Hắn có một thói quen mà tác giả viết “hắn đến nhà giáo viên nào đó chẳng hạn, kéo ghế ngồi, chẳng nói chẳng rằng…” chính là cách mà hắn giữ mối quan hệ với giáo viên trong trường. Tính cách của hắn thì là con người thích áp đặt, biểu hiện rõ nhất tron cuộc đối thoại với Cô – va – len khi nhìn thấy chị em cô phóng xe nhanh đi trên phố. Hắn nói: “Tôi thì vào nghề đã lâu, còn anh thì mới bắt đầu đi làm, nên với tư cách là bạn đồng nghiệp đi trước, tôi thấy có nghĩa vụ phải nhắc nhở với anh đôi điều. Anh đã đi xe đạp và cái trò giải trí ấy hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Một con người có suy nghĩ áp đặt tư tưởng và buộc người khác phải tuân theo đến cổ hủ, đến không biết đúng sai, đến mức khiến cho người khác khó chịu đến khôn cùng. Và hắn đã bị Cô – va – len đẩy xuống cầu thang vì quá bức bối và khó chịu với hắn.

Một con người lúc nào cũng sống theo kiểu bao che kín mít, không chịu hòa nhập với mọi người, với thiên nhiên, luôn luôn sợ hãi một điều gì đó sẽ ảnh hưởng với chính mình. Lúc nào cũng thu hẹp bộ não của mình tỏng những suy nghĩ tiêu cực và hèn nhát, quả là một con người trí thức nhưng tầm nhận thức quá hạn hẹp. Bê – li – cốp đã biến cuộc sống của mình làm nỗi sợ hãi cho tất cả mọi người. “thế mà cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy đã khống chế cả trường học chúng tôi suốt mười lăm năm trời”. Cả thành phố cũng sợ hắn, cả các bà, các mẹ cũng sợ hắn, ngay cả giới tu hành khi gặp hắn cũng không dám ăn thịt hay đánh bài. Một lối sống xấu làm ảnh hưởng tới cuộc sống của rất nhiều người trong xã hội. Ngay cả những bản tính vốn có của người khác cũng bị hắn làm cho mất dần mất “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ…”

Bê-li-cốp là một nhân vật điển hình sắc nét mà Sê-khốp đã xây dựng thành công trong truyện ngắn này – kiểu “người trong bao”, một sản phẩm của xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thu nặng nề cuối thế kỉ XIX. Hắn chết, có lẽ cái chết do Cô – va – len xô hắn quá mạnh vì từ ngày hắn bị ngã đó, hắn cứ nằm im trên giường và không bao giờ dậy nữa. Nhưng sâu xa hơn đó chính là cái lối sống tron bao của hắn, hắn ngã, hắn bị Va – ren – ca cười đó chính là nỗi nhục lớn, chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt luôn cả cuộc đời của hắn. Một câu gần cuối bài đã đưa con người ta vào những suy nghĩ triết lý sâu xa “Bấy giờ, khi nằm trong quan tài, vẻ mặt hắn trông hiền lành, dễ chịu, thậm chí còn có vẻ tươi tỉnh nữa, cứ hệt như hắn mừng rằng cuối cùng hắn đã được chui vào trong bao mà từ đó không bao giờ phải thoát ra nữa. Phải rồi, thế là hắn đã đạt được mục đích cuộc đời”.

Câu chuyện mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nguyễn Tuân từng ca ngợi: “Truyện Bê – li – cốp là một áng văn đả kích lên đến tuyệt đỉnh: hình thù, tên họ nhân vật đã thành một cái sự, đã thành một hình dung từ ngày nay vẫn còn tác dụng lớn”

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 4

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 8

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 4

An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp là nhà văn nổi tiếng của văn học Nga thế kỉ XIX. Ông là đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga. Vốn là một bác sĩ, ông đã viết văn để chỉ ra những căn bệnh tinh thần của thời đại ông. Tác phẩm Người trong bao kể về một viên chức có cách sống của một kẻ thích “trong bao”. Thực chất, đó là một cách sống trốn tránh, hèn nhát, xu phụ, luôn sống trong sơ hãi. Và chính cách sống đó cũng gây nên một hoàn cảnh đen tối, sự ngột ngạt, khó thở cho chính những người xung quanh. Tâm lí nô lệ, hèn đớn, bạc nhược, tự ti là hình ảnh của cuộc sống công chức Nga cuối thế kỉ XIX, một lối sống thảm hại, bạc nhược khiếp sợ trước cường quyền. Lối sống đó phản ánh bầu không khí ngột ngạt, nặng nề thời chuyên chế bao trùm xã hội.

Người trong bao – chân dung mang tính biếm hoạ Người trong bao là biệt hiệu người ta gọi Bê-li-cốp – một giáo viên trung học. Bởi lẽ, hắn có một nếp sống lạ kì: chỉ thích chui vào những cái bao. Qua lời Bu-rkin, một đồng nghiệp: ô hắn để trong bao; chiếc đồng hổ quả quýt cũng để trong bao; dao cũng đặt ở trong bao; bộ mặt dường như cũng ở trong bao ; xe ngựa cũng cho kéo mui lên ; phòng ngủ của hắn cũng chật như một cái hộp; dù nóng bức, hắn cũng trùm chăn kín đầu; cả ý nghĩ của mình, hắn cũng cố giấu vào bao. Nói tóm lại, con người này có khát vọng mãnh liệt thu mình vào trong một cái vỏ, tạo cho mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hẳn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài.

Hơn thế nữa, trong cách sống, hắn còn tự tạo nên những cái bao vô hình khác, rất an toàn: lúc nào cũng ngợi ca quá khứ; ca ngợi chữ Hi Lạp, một thứ từ ngữ; ngợi ca những gì không bao giờ có thật; che giấu cả ý nghĩ. Với những chi tiết được miêu tả rõ ràng như vậy, chân dung kì quặc của người trong bao đã hiện lên thật sinh động. Bên cạnh đó, hắn còn được đặc tả : lúc nào cũng kè kè giày cao su và cái ô. Chi tiết này nhắc lại nhiều lần làm hoàn chỉnh bức chân dung đầy tính biếm hoạ: người “trong bao”! Vì sao vậy? Vì sao hắn luôn muốn trốn trong những cái bao như vậy? Con người đó sợ cái gì? Hoá ra, hắn sợ tất cả.

Ban ngày thì chui vào mọi thứ bao, ban đêm chui vào trong chăn. Và vì sợ hãi quá, nên trốn trong một cái bao là an toàn nhất. Đó là hình ảnh con người luôn muốn trốn tránh, không dám đối đầii với hiện thực. Vì vậy, khi gặp liển một lúc nhiều phức tạp, biến động, những điều “khủng khiếp” : bị đồng nghiệp trêu chọc về tình cảm của hắn với một cô gái, bị phản đối thô bạo vì những lời dạy dỗ của mình, bị chứng kiến đồng nghiệp tỏ ra không sợ gì cấp trên, bị gọi đúng tên là kẻ mách lẻo, bị cười nhạo vì ngã, sợ ông hiệu trưởng, ông thanh tra biết, sẽ bị chế giễu, bị ép về hưu…, tất cả đã khiến con người luồn sợ có cái gì xảy ra đã không thể chịu đựng được, và hắn đã chết.

Cái chết này cũng là một sự biếm hoạ. Làm sao mà một người bình thường có thể chất và tâm hồn lành mạnh lại có thể chết vì những chuyên vớ vẩn như thế được. Kể cả một kẻ bạc nhược vể mặt tinh thần cũng không dễ chết như vậy. Ngay cả khi chết, dáng vẻ của hắn cũng mang vẻ “trong bao”. Hắn có vẻ thanh thản vì đã đạt được mục đích cuộc đời: Không có cái gì xảy ra nữa, hắn đã được chui vào một cái bao vĩnh cửu!

Người trong bao – ẩn dụ về tâm lí nô lệ, cuộc sống hèn nhát, nặng nề, ngột ngạt, vô vị. Tại sao Bê-li-cốp lại sợ tất cả mọi thứ trên đời này như vậy? Tại sao hắn chọn cho mình lối sống nặng nề, bạc nhược như vậy? Nhà văn đã chỉ rất rõ: đó là do tâm lí hèn nhát, nô lệ của chính hắn. Tâm lí đó khiến hắn sợ bất cứ cái gì phiền nhiều của cuộc sống. Thứ nhất, hắn hèn nhát đến nỗi sợ tất cả những điều khác lạ, sợ cái gì tân tiến, sợ trở thành trò cười cho thiên hạ. Hắn cũng muốn kết giao bè bạn, nhưng chỉ làm người khác sợ hãi vì không biết được những suy nghĩ thật của hắn. Hắn cũng muốn kết hôn, nhưng chỉ cần gặp một trở ngại nhỏ là hắn đã không thể vượt qua: bị chế giễu, bị đối diện với phong cách mới mẻ của cô gái.

Bị chế giễu vì chuyện tình cảm, hắn rất buồn bực bởi thấy mình chẳng làm điều gì sơ suất đáng để bị giễu cợt như vậy. Thấy cô gái Va-ren-ca đi xe đạp – thời đó, đi xe đạp là chuyện lạ, nhất là đối với phụ nữ – hắn đã ngạc nhiên đến hoảng hốt, sợ phút kinh lên. Đấy là giọt nước tràn li, hắn không chịu nổi điều đó. Qua cuộc cãi cọ với Kô-va-len-cô, những ý nghĩ của hắn mới dần bộc lộ rõ. Theo hắn, cần phải cư xử cho thận trọng. Đi xe đạp, mặc áo thêu ra đường, tay cầm sách là những việc buông thả, còn phụ nữ đi xe đạp là chuyện kinh khủng, chẳng ra cái thế thống gì nữa. Nghĩa là, hắn luôn trong trạng thái bảo thủ và luôn sống rất mẫu mực, lúc nào cũng xử sự như một người tử tế, đứng đắn.

Thực ra, có lẽ, hắn là một công chức mẫu mực. Nhưng tâm lí luôn sợ những cái vượt ra ngoài chuẩn mực ấy đã khiến con người hắn trở nên bé nhỏ, tầm thường, vô vị và hèn nhát. Thứ hai, đó là tâm lí đớn hèn, luôn sợ cấp trên. Nô lệ vào cấp trên đến nỗi không dám có ý nghĩ riêng của mình. Đối với hắn, chỉ có những thông tư, chỉ thị mới là cái rõ ràng. Ngợi ca quá khứ, dạy chữ cổ, ngợi ca những cái không có thật, là an toàn. Và an toàn nhất là không làm gì cả, chỉ làm những điều cấp trên cho phép! Hắn còn giải thích rõ vì sao, cái nguyên nhân sâu xa khiến mọi người không được lùm bất cứ việc gì: nếu không có chỉ thị nào cho phép.

Cấp trên ở đây chính là ông hiệu trưởng, ông thanh tra ! Hắn thấy rằng phải luôn luôn kính trọng cấp trên, và đề nghị mọi người “khi có mặt tôi, đừng bao giờ ăn nói như thế vé cấp trên. Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền”! Vì thế, vừa sợ bị cấp trên hiểu lầm, vừa thấy thái độ không kính trọng cấp trên của đồng nghiệp, hắn đã định mang cuộc cãi cọ của minh với Kô-va-len-cô đi mách với ông hiệu trưởng. Ở đây lại xuất hiện một đặc tính của hắn: luôn xu phụ cấp trên, chỉ điểm, chụp mũ đồng nghiệp (nói những điều không đúng, quy kết sang thái độ chính trị, đạo đức của ai đó). Suy cho cùng, các nét hành động này chính là hệ quả của cách sống hèn nhát: bảo vệ mình bằng cách bôi xấu kẻ khác. Còn đối với mọi người, tại sao, một giáo viên quèn, dạy môn tiếng Hi Lạp vớ vẩn, lại có thể làm cho mọi người không chỉ quanh hắn, mà cả thành phố sợ hãi?

Nguồn gốc của tất cả nỗi khiếp sợ ấy, khiến nó có cơ sở để lây lan, chính là tâm lí nô lệ, hèn nhát phổ biến của tất cả mọi người, không chỉ Bê-li-cốp : sợ cấp trên, sợ cường quyền, sợ dư luận, sợ các vãn bản, thống trị, chỉ thị,… Qua phản ứng dữ dội của Kô-va-len-cô, hoá ra mọi người đều sợ bị chụp mũ (tức là bị buộc những tội không phải mình làm) và rất sợ bị chỉ điểm, mách lẻo, bị đưa chuyện với cấp trên. Điều này hình như trong tâm lí, mọi con người đều sợ, như là một thứ sợ bản năng. Vì nó, người ta phải dẹp bớt các nhu cầu, kể cả những nhu cầu chính đáng của mình, và đâm ra nghi ngờ, dò xét lẫn nhau.

Tâm lí sợ hãi ấy như một bệnh dịch, cũng hay lây lan. Bê-li-cốp đến chơi nhà mọi người, chỉ ngồi lì một chỗ, chẳng nói chẳng rằng. Cũng vì chẳng hiểu hắn nghĩ gì, muốn gì, bởi đến cả ý nghĩ, hắn cũng cố giấu, nên rốt cuộc mọi người đâm ra sợ hắn. Chắc là họ sợ hắn sẽ tố cáo họ với cấp trên, sợ hắn như sợ một con chó săn ngồi canh cửa cho chính quyền. Và rồi họ cũng chẳng dám làm gì nữa, kể cả những việc bình thường như diễn kịch, những việc sai phạm nhỏ nhặt như nhà tu đánh hài, ăn thịt, thậm chí cả những việc tốt mang tính tiến bộ, dân chủ như gửi thư, làm quen, đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ,… Tâm lí sợ hãi ấy chính là cái bao vô hình bao phủ thường trực cuộc sống của tất cả mọi người. Cái bao đó không chỉ bao bọc Bê-li-cốp mà còn bao phủ một bức màn u ám lên cuộc sống của con người trong thị trấn suốt mười lăm năm.

Mười lăm năm, thật là một cuộc sống khủng khiếp, không ra cuộc sống con người. Nhưng mười lăm năm ngột ngạt, không dám làm gì ấy, theo người kể chuyện, cứ tướng là do sự hiện diện của “kẻ trong bao”. Nhưng không ngờ, kẻ trong bao dù đã chết rồi, không khí ngột ngạt, bức bối vẫn bao trùm cuộc sống của người dân thành phố. Hoá ra, cái không khí ngột ngạt ấy là do chính cách sống của mọi người tạo nên. Điều dó đã được chính bác sĩ I-van tổng kết : “chúng ta viết những giấy tờ vô dụng, đánh bài đánh bạc…, sống cả đời bên những kẻ vô công rồi nghề” (kẻ đã châm biếm tình cảm của Bê-li-cốp), “những kẻ xui nguyên giục bị” (Bê-li-cốp định mách lẻo với cấp trên), “những mụ đàn bà nhàn rỗi ngu si” (tiếng cười ha ha vô duyên của Va-ren-ca khi nhìn người khác bị ngã là ví dụ), “chúng ta nói và nghe đủú thứ chuyện nhảm nhí, vô nghĩa”.

Tất cả đó là những cái bao, làm không khí ngột ngạt, u ám, tối tăm. Như vậy, lỗi cũng chẳng phải là do lối sống của kẻ trong bao, mà là lỗi của chính cuộc sống thị dân tăm tối, vô nghĩa. Cái u ám của cuộc sống bị bóp nghẹt tự do, dân chủ, dưới sự độc đoán, tàn bạo, luôn có nhà tù, xích xiềng kề bên, cuộc sống tăm tối đó của nước Nga dưới chế độ chuyên chế đã ánh chiếu vào trong đời sống của những kẻ thị dân này. Và cần phải có một cuộc sống khác! Không thể sống mãi như thế được! Đó là lời cảnh báo và cũng là lời phê phán mạnh mẽ lối sống tiêu cực đó của nhà văn Sê-khốp.

Bức chân dung mang tính biếm hoạ người trong bao đã cho thấy một thực trạng đang phổ biến ở nước Nga thời bấy giờ: sự bạc nhược, ốm yếu về tinh thần với tâm lí nô lệ, hèn nhát là một trạng thái thường trực của thời đại, hệ quả của sự bóp nghẹt dân chủ và tự do. Muốn vượt qua được tâm lí đó, cần có một lối sống khác và những điều kiện xã hội dân chủ cởi mở hơn.

Điều ấy, phải do chính những con người dám dũng cảm cải tạo căn bệnh tinh thần của thế hộ mình và phải cùng nhau xây dựng một chế độ tốt đẹp, để có thể giải phóng chính mình, giải phóng con người khỏi những xích xiềng tinh thần vô nghĩa.

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 7

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 8

Sê Khốp được biết đến là một nhà văn Nga xuất sắc sinh ra và lớn lên trọng một thị trấn nghèo, nhưng dường như ông lại có được sự hiểu biết to lớn về văn học, và thấu hiểu cuộc đời của những con người trong thời đại mà ông đang sống. Có lẽ chính vì vậy để phản ánh được cuộc sống của những con người đó ông đã viết lên truyện “Người Trong Bao” để như có thể phản ánh về một tầng lớp người trong xã hội Nga cũ.

Truyện dường như đã phản ánh được mạnh mẽ con người Nga lúc bấy giờ. Sê-khốp đã xây dựng lên những hình ảnh độc đáo và chi tiết Sê Khốp đã như phản ánh được một tầng lớp đáng bị lên án và chê trách mạnh mẽ, những giá trị to lớn mà tác phẩm này để như lại đó chính là dùng lối ẩn dụ và dùng cái riêng để nói về cái chung của cả một thời đại họ đang sống. Có thể nói trong khung cảnh của nước Nga lúc bấy giờ xuất hiện những con người luôn mang trong mình những nỗi khiếp sợ về thế giới bên ngoài, như nhân vật Bê –li- cốp trong truyện đã diễn tả hết sức sâu sắc được điều đó.

Câu chuyện dường như đã xoay quanh vấn đề của ông Bê li cốp với một cách sinh hoạt kì quái, tất cả mọi thứ ông đều cất giữ trong bao, ví dụ như ô hắn để trong bao, hay đó còn là chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao, đặc biệt cái khuôn mặt của hắn cũng như lúc nào cũng để trong bao vì lúc nào hắn cũng giấu mặt qua chiếc áo bành tô,…Và dễ nhận thấy mọi thứ của ông đều được gói trong bao, với kiểu cách sinh hoạt kì lạ làm cho người xem có nhiều hứng thú khi quan sát diễn biến của câu chuyện này.

Với những tình tiết ly kì của câu chuyện nó dường như đã được xen vào những yếu tố kì lạ của nhân vật làm nên những cảm xúc đặc biệt của người xem, ở đây mọi điều như đang cuốn vào những vóng xoáy của chiếc bao chật hẹp đó. Dường như mọi thứ cứ như bị che khuất đi bởi không gian tù túng của chiếc bao đó. Và một con người kì lạ đã làm cho người đọc hiểu được một điều rằng con người này chỉ như ngày ngày suốt tháng bó mình trong những điều nhỏ nhất của chiếc bao, không dám đi ra thế giới bên ngoài, cuộc sống bó hẹp trong những không gian nhỏ bé và hạn hẹp nhất.

Có thể nói mọi hành động của ông thật quái dị khiến cho người xem có cảm giác như đang đi sâu vào thế giới của người trong bao và việctạo ra những tình huống làm nên tiếng cười sâu sắc và mạnh mẽ nhất, những nỗi lo sợ và hạn hẹp của ông giáo viên này để lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc nhất của con người tư sản của nước Nga thời bấy giờ. Dường như chính những điều đó đã phản ánh được lối sống thừa thải của một tầng lớp trí thức lúc bấy giờ. Trong những cách sinh hoạt quái gở đã làm nên một con người trong bao với những diện mạo khiến người xem cảm thấy buồn cười. Thật dễ nhận thấy khi sống trong một khoảng không gian bị bó hẹp của những cái bao, thì cuộc sống của người giáo viên này dường như không có ý nghĩa, khi kiểu cách sinh hoạt đó làm hạn chế đi những điều tốt đẹp của giới trí thức.

Tất cả mọi điều con người này đã và đàn làm đều mang những tư tưởng sợ hãi, và ở hàng loạt việc xây dựng lên những chi tiết thể hiện mạnh mẽ được điều đó như trong căn buồng ngủ của ông cũng ngột ngạt và bó hẹp, ngay cả khi đi ngủ dù trời lạnh hay nóng ông vẫn đắp chăn kín đầu, tất cả mọi thứ đều được bó hẹp trong cảm giác của ông, nó mang cho ông những nỗi sợ hãi, và con người này dường như cũng đã được miêu tả thật tài tình. Bằng với những chi tiết rất sâu sắc và lột tả mạnh mẽ được lối sống của cả một tầng lớp tri thức Nga lúc bấy giờ, và dường như mọi cảm xúc được lan tỏa và thể hiện một cách rõ ràng và chi tiết nhất.

Có thể nói nhân vật Bê li cốp đã là một đối tượng để nhà văn sử dụng để có thể lột tả chi tiết về xã hội Nga lúc bấy giờ những cảm xúc sâu sắc nhất đã được thể hiện ở đó. Và chính cách sống của ông không chỉ ảnh hưởng đến tầng lớp tri thức mà ông hay tiếp cận mà nó còn ảnh hưởng đến cả một thành phố lớn như Nga. Và đó chính là tư tưởng sống bị bó hẹp, với cuộc sống chật vật và gian nan đã mang đậm giá trị cốt lõi là phản ánh đối tượng của tác phẩm là một tầng lớp tri thức bảo thủ ích kỉ, có lối sống hẹp hòi…

Tất cả mọi người khi mà nhìn thấy con người kỳ lạ này chắc hẳn ai cũng đều có cảm xúc riêng và đặc biệt có thể có thái độ khinh bỉ đối với một lối sống lực cười và có thể nói không giống ai. Chính là với kiểu cách khác lạ đã mang đậm giá trị tố cáo phản ánh mạnh mẽ những tầng lớp to lớn của xã hội Nga khi đó, những con người mang trong mình những tri thức nhưng lại hành động một cách bảo thủ và không có lợi ích gì cho xã hội này. Có thể thấy những hình ảnh về mối tình của ông với cô gái Cô-va len cô, nhưng cô ta đã xin Bê li Cốp để cho cô yên, cô đã đẩy ông ta ngã cầu thang, nhưng trong cái vỏ bọc của chính mình, ông cũng như đã bình yên vô sự như không có điều gì xảy ra. Nhưng rồi những giọng điệu chê bai đã thể hiện một cách mạnh mẽ và chi tiết nhất đã được thể hiện với những câu cười haha ha tất cả đã mang đậm giá trị và ý nghĩa sâu sắc nhất về con người.

Những tiếng cười được bật ra đó mang những lời chế diễu sâu sắc nhất đối với chính tác giả, những cảm xúc và sự chấm dứt về cưới xin rồi thì rất nhiều những điều mà trong câu chuyện đang đề cập đến thì dường như chúng ta đã thấy cuộc sống của nhân vật này đáng để cho con người chê trách và khinh bỉ. Và chính sau vụ đẩy lộn ở trường, hắn trở về nhà với cái bao của chính mình, và sau một tháng hắn chết… trong những chi tiết được miêu tả trong bài là hắn đang im lặng trong chiếc quân tài và đây có lẽ là điều mà cuộc sống của hắn muốn. Có lẽ chúng ta biết rằng tất cả mọi điều đã để lại những cảm xúc sâu sắc nhất trong cái nhìn của mỗi người về cuộc sống nhỏ hẹp của nhân vật. Dường như cái chết đó đã mang lại một sự giải thoát mạnh mẽ về tư tưởng của nước Nga lúc bấy giờ tránh khỏi một tư tưởng nhỏ hẹp, ngột ngạt để ảnh hưởng đến cả một thế hệ lớn. Và cần phải giải thoát nước Nga khỏi tư tưởng và xóa bỏ đi những tầng lớp tri thức bảo thù, ích kỉ này…

Tóm lại tất cả những điều đó ảnh hưởng xấu đến cuộc sống và con người của cả một dân tộc nước Nga. Tác phẩm cũng như đã để lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc nhất về toàn bộ nước Nga thời bấy giờ những cảm xúc đó đã và đang mang đậm những nét đặc trưng và phản ánh sâu sắc về những con người không có chút tư tưởng tiến bộ, cần xóa bỏ đi những con người đó tại xã hội này. Dường như với những hoàn cảnh của xã hội cũng được biểu lộ một cách da diết và có ý nghĩa nhất trong cuộc đời của mỗi con người nó đều ngập tràn những cảm xúc và nảy sinh trên đó là biết bao nhiêu bài học quý giá về cuộc đời và ý nghĩa của con người. Một bộ mặt của nước Nga đang dần đang hé mở và biểu lộ một cách có ý nghĩa nhất. Con người chúng ta đang được chứng kiến những khoảng khắc tuyệt vời và mang đậm sự tố cáo, khi tác giả đã vẽ ra một nền xã hội chân thực, với những con người tri thức nhưng mang tầm trưởng giả lớn. Và ta như thấy những điều đó nó làm cho con người của chúng ta đang được biểu lộ một cách có ý nghĩa và chi tiết nhất cho cuộc đời của mỗi con người.

Ó thể nói ở đây những chi tiết đã biểu lộ và thể hiện một cái nhìn đầy màu sắc, trong tâm hồn của con người, họ được sống và rung động trong những khoảng khắc đang nhớ và da diết nhất về cuộc đời của chính mình. Đã có biết bao nhiêu cảm xúc và những nỗi nhớ dạt dào khi xã hội đang lâm vào con đường với những lối sống bị bó hẹp mạnh mẽ, và nó có khả năng thể hiện những nỗi nhớ da diết và trầm lặng trong chính tâm hồn của con người, mỗi chúng ta đều có thể thấy được điều đó. Chính qua những cảm xúc riêng và những nét vẽ tiêu biểu đậm giá trị tố cáo, và phản ánh về xã hội này và trong mỗi người chúng ta cần phải biết và thấu hiểu nó một cách sâu sắc và có ý nghĩa nhất về cuộc đời và giá trị của mỗi người, khi sống trong xã hội lúc bấy giờ.

Những hình thức xã hội cũ kĩ và không phù hợp dường như đã được thay bỏ và nồng ghép vào đó là sự xây dựng nhân vật một cách chi tiết và giàu có về ý nghĩa nhất. Và dường như nó đã tố cáo mạnh mẽ tầng lớp và sự thống khổ trong mọi tầng lớp của con người, chúng ta cần phải biết sống và tạo nên được điều đáng quý và hiểu được xã hội đang cần gì, đó là điều tốt nhất trong cuộc sống này.

Sê Khốp được biết đến là một nhà văn Nga xuất sắc sinh ra và lớn lên trọng một thị trấn nghèo, nhưng dường như ông lại có được sự hiểu biết to lớn về văn học, và thấu hiểu cuộc đời của những con người trong thời đại mà ông đang sống. Có lẽ chính vì vậy để phản ánh được cuộc sống của những con người đó ông đã viết lên truyện “Người Trong Bao” để như có thể phản ánh về một tầng lớp người trong xã hội Nga cũ.

Những tiếng cười được bật ra đó mang những lời chế diễu sâu sắc nhất đối với chính tác giả, những cảm xúc và sự chấm dứt về cưới xin rồi thì rất nhiều những điều mà trong câu chuyện đang đề cập đến thì dường như chúng ta đã thấy cuộc sống của nhân vật này đáng để cho con người chê trách và khinh bỉ. Và chính sau vụ đẩy lộn ở trường, hắn trở về nhà với cái bao của chính mình, và sau một tháng hắn chết… trong những chi tiết được miêu tả trong bài là hắn đang im lặng trong chiếc quân tài và đây có lẽ là điều mà cuộc sống của hắn muốn. Có lẽ chúng ta biết rằng tất cả mọi điều đã để lại những cảm xúc sâu sắc nhất trong cái nhìn của mỗi người về cuộc sống nhỏ hẹp của nhân vật.

Dường như cái chết đó đã mang lại một sự giải thoát mạnh mẽ về tư tưởng của nước Nga lúc bấy giờ tránh khỏi một tư tưởng nhỏ hẹp, ngột ngạt để ảnh hưởng đến cả một thế hệ lớn. Và cần phải giải thoát nước Nga khỏi tư tưởng và xóa bỏ đi những tầng lớp tri thức bảo thù, ích kỉ này… Tóm lại tất cả những điều đó ảnh hưởng xấu đến cuộc sống và con người của cả một dân tộc nước Nga.

Tác phẩm cũng như đã để lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc nhất về toàn bộ nước Nga thời bấy giờ những cảm xúc đó đã và đang mang đậm những nét đặc trưng và phản ánh sâu sắc về những con người không có chút tư tưởng tiến bộ, cần xóa bỏ đi những con người đó tại xã hội này. Dường như với những hoàn cảnh của xã hội cũng được biểu lộ một cách da diết và có ý nghĩa nhất trong cuộc đời của mỗi con người nó đều ngập tràn những cảm xúc và nảy sinh trên đó là biết bao nhiêu bài học quý giá về cuộc đời và ý nghĩa của con người. Một bộ mặt của nước Nga đang dần đang hé mở và biểu lộ một cách có ý nghĩa nhất. Con người chúng ta đang được chứng kiến những khoảng khắc tuyệt vời và mang đậm sự tố cáo, khi tác giả đã vẽ ra một nền xã hội chân thực, với những con người tri thức nhưng mang tầm trưởng giả lớn. Và ta như thấy những điều đó nó làm cho con người của chúng ta đang được biểu lộ một cách có ý nghĩa và chi tiết nhất cho cuộc đời của mỗi con người.

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 2

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 7

Sê-khốp (1860-1904) là một trong những cây đại thụ của rừng văn học Nga, đã để lại nhiều kịch bản và hơn năm trăm truyện ngắn. Tác phẩm của Sê-khốp làm hiện lên toàn cảnh xã hội nước Nga cuối thế kỉ XIX ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề dưới thời Sa hoàng.

Truyện ngắn “Người trong bao” được Sê-khốp viết vào năm 1898. Qua nhân vật Bê-li-cốp, tác giả châm biếm và đả kích người trí thức Nga sống tầm thường, hủ lậu, hèn nhát và giáo điều, đê tiện và dung tục; đồng thời chỉ ra lối sống ấy đã để lại nhiều di hại đầu độc tâm hồn người, đầu độc cuộc sống, gây ảnh hưởng và hậu quả nặng nề, dai dẳng trong xã hội nước Nga. Cái bao mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát ra được, chết rồi cũng không thoát ra được!

Cuộc đời của anh giáo chức tỉnh lẻ Bê-li-cốp là những trang hài, là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt. Chả thế mà cô giáo Va-ren-ca đã “cười phá lên” khi Bê-li-cốp bị xô ngã “lộn nhào” xuống chân cầu thang, và cô đã “òa lên khóc” khi hắn đã nằm trong bao đi chầu âm phủ!

Bê-li-cốp, giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp cổ. Hắn quen sống trong tù túng, nô lệ. Với hắn thì “nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hắn sống vì quá khứ, như một kẻ mang bệnh tâm thần, lúc nào cũng sống trong tâm trạng “sợ hãi”, “lo âu”, “nhút nhát” . Hắn chỉ có một chút niềm vui do bệnh nghề nghiệp sinh ra. Hắn nói “ngọt ngào”: “Ôi, tiếng Hi Lạp nghe thật tuyệt vời êm tai”, rồi “nheo mắt lại”, “giơ một ngón tay lên” và thốt ra tiếng: “An-thro-pos”. Phải chăng lúc đó gã Bê-li-cốp hạnh phúc nhất. Chắc lúc ấy hắn đã thò đầu ra khỏi cái bao trong khoảnh khắc!

Qua các chi tiết nói về cái bao, Sê-khốp châm biếm một loại “linh hồn chết” trong xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, đó là loại trí thức sống lạc hậu, cổ hủ, nô lệ, mù quáng, sống cuộc đời chật hẹp, quẩn quanh tù túng. Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất kì lạ. Hắn có một thói quen “kì quặc”. Hắn thường đến các nhà giáo viên, như hắn nói đến để “duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè”. Nhưng hắn đến mà “chẳng nói chẳng rằng”, cứ “ngồi im như phổng”, mắt thì nhìn quanh “như tìm kiếm vật gì”, độ một giờ sau thì cáo từ.

Tính hắn hâm hay hắn là một mật vụ lân la dò xét? Vì thế, giáo viên nào trong trường cũng sợ hắn. Cả hiệu trưởng, oai quyền thế cũng sợ hắn. Cả thành phố đều sợ hắn. Các bà, các cô không dám diễn kịch vào tối thứ bẩy vì sợ rằng “nhỡ hắn biết thì lại phiền”. Giới tu hành không dám ăn thịt và đánh bài khi có mặt hắn. Bê-li-cốp như một bóng ma, một hung thần gieo rắc sợ hãi, làm cho dân chúng trong thành phố suốt một thời gian dài mười lăm năm trời “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, sợ giúp đỡ người nghèo, sợ dạy học chữ…”.

Sê-khốp đã chỉ ra và cho thấy loại người trong bao, lối sống trong bao thật vô cùng đáng sợ. Loại người ấy, lối sống ấy đã toả chiết tâm hồn người, bao phủ lên khắp mọi nơi một bóng đen đáng sợ. Vì quanh năm suốt tháng tự nhốt mình trong bao nên Bê-li-cốp sống như một người bệnh tưởng, trầm cảm. Hắn sợ ánh sáng, sợ bóng tối, sợ trộm vào nhà, sợ lão nấu bếp cắt cổ hắn. Nhà lúc nào cũng đóng chặt cửa, cài then, chăn trùm đầu kín mít lúc ngủ, ở nhà mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào hắn cũng mặc áo khoác ngoài. Suốt đêm, “hắn toàn mơ những điều khủng khiếp” vì thế buổi sáng đến trường, mặt hắn “tái nhợt, rầu rĩ” một cách thảm hại! Lối sống đó là sống khổ, sống mà như chết. Bê-li-cốp đã tự cầm tù mình, đày đoạ mình, gây đau khổ cho thân mình. Hắn thật đáng thương hại.

Hóm hỉnh và ý vị biết bao khi Sê-khốp nói về bi kịch ái tình của người trong bao. Cô giáo Va-ren-ca khoảng ba mươi tuổi mới về trường, thế là nữ thần ái tình đến gõ trái tim Bê-li-cốp. Trên bàn trong ngôi nhà “chật như cái hộp”, hắn trân trọng đặt tấm ảnh người đẹp. Ý định lấy vợ choán ngợp tâm hồn hắn, nhưng vì quen sống trong bao nên hắn cứ lần lữa đắn đo, suy tính, lúc nào mặt mày cũng nhợt nhạt đáng thương. Hắn bị gán ghép, rồi hắn có vẻ thích Va-ren- ca… Thế là bức tranh biếm hoạ “An-thro-pos si tình” (kẻ si tình) được gửi đến tất cả các giáo viên ở hai trường nam nữ, giáo viên chủng viện, các viên chức và cả Bê-li-cốp nữa. Bức biếm hoạ mới gợi tình làm sao: hình ảnh “Bê-li-cốp đang đi, chân xỏ trong giày mưa, quần túm ống, tay cầm ô, tay khoác tay Va-ren-ca”. Chà! Người trong bao lãng mạn và đa tình quá! Nhưng Bê-li-cốp lại bị sốc, bị bức tranh châm biếm gây cho hắn “một ấn tượng nặng nề”.

Sê-khốp đã tạo nên những chi tiết điển hình, những tình huống điển hình để khắc hoạ tính cách của Bê-li-cốp người trong bao . Dư vị chua cay, hài hước của câu chuyện càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn. Bê-li-cốp chẳng gặp “hên” một chút nào! Ngày chủ nhật, mồng một tháng năm hôm ấy, thầy trò cả trường trung học tổ chức cùng đi ra ngoài thành phố vào rừng chơi. Nhưng anh chàng Bê-li-cốp đã bỏ về giữa chừng. Giữa đường hắn bất ngờ thấy hai chị em Va-ren-ca cưỡi xe đạp phóng qua. Cô chị “mặt mày ửng đỏ… vui vẻ, hớn hở” gào to: “Trời hôm nay đẹp thật, đẹp tuyệt, đẹp ghê gớm!”. Bê-li-cốp “ngẩn người ra”, như bị choáng, bị ma ám: “Mặt mày đang từ xanh mét chuyển sang trắng bệch”. Người trong bao phàn nàn, trách cứ: “Chẳng lẽ giáo viên và đàn bà, con gái lại có thể cưỡi xe đẹp, làm như thế coi sao tiện?”.

Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ đáng cười? Phải chăng hắn là một nhà mô phạm đang bảo vệ nên đạo đức chính thống? Suối ngày hôm sau, người trong bao đau khổ dằn vặt, bực dọc, toàn thân run lên”, thậm chí hắn bỏ cả buổi lên lớp, bỏ cả cơm trưa. Tối hôm đó, dù đang tiết mùa hạ, nhà đạo đức bèn “mặc áo ấm” lần mò đến nhà hai chị em Va-ren- ca. Cô chị đi vắng, hắn chỉ gặp được người em. Hắn thật thà thanh minh về bức tranh châm biếm. Hắn khẳng định nhân cách “tử tế, đứng đắn” của mình. Lấy tư cách là “bạn đồng nghiệp đi trước”, hắn nhắc nhở kẻ “mới bắt đầu đi làm” đôi điều.

Hắn chê trách việc đi xe đạp của hai chị em Va-ren-ca “hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Hắn cảnh cáo việc đi xe đạp ấy là thiếu gương mẫu, là trái pháp luật, trái nội quy vì “chưa có chỉ thị nào cho phép thì không được làm”. Hắn bày tỏ thái độ nào là “phát kinh lên”, nào là mắt hoa lên” khi nhìn thấy cảnh đàn bà, con gái đi xe đạp! Hắn khuyên nhủ Cô- va-len-cô phải xử sự “thận trọng”, không được buông thả quá chừng như mặc áo thêu ra đường, trong tay còn cầm sách này nọ, lại còn cưỡi xe đạp nữa. Hắn nhắc nhở nếu chuyện ấy đến tai ông hiệu trưởng, ông thanh tra thì “còn ra cái thể thống gì”.

Khi bị Cô-va-len-cô cự lại, hắn răn dạy: “Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền”. Hắn dọa “sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng nội dung câu chuyện” đã xảy ra mà hắn đã nói với Cô-va-len-cô. Cuộc đôi co diễn ra. Cô-va-len-cô “thô bạo” chỉ vào mặt Bê-li-cốp và bảo hắn là “tên mách lẻo”, rồi túm lấy cổ áo hắn, tống cổ ra khỏi nhà. Người trong bao “lộn nhào xuống chân cầu thang”. Sự việc diễn ra đầy kịch tính. Khi Bê-li- cốp “sờ lên mũi xem cặp kính có còn nguyên vẹn không”, thì hai người đàn bà và Va-ren-ca bỗng từ đâu xuất hiện, nhìn thấy. Bê-li-cốp đau khổ cảm thấy thà “tự vặt cổ” còn hơn là biến thành trò cười cho thiên hạ. Hắn vô cùng lo sợ câu chuyện sẽ đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra. Người ta sẽ vẽ tranh châm biếm hắn, sẽ ép hắn về hưu…

Có bao chi tiết bi hài. Nhất là khi Va-ren-ca “cười phá lên vang khắp khu nhà”. Tiếng cười “ha-ha-ha!” lảnh lót, âm vang ấy “đã chấm dứt tất cả”: “chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời của Bê-li-cốp”. Cái ngã của Bê-li-cốp xuống chân cầu thang, điệu cười “lảnh lót” của Va-ren-ca có giá trị và ý nghĩa phê phán một cách chua cay lối sống giáo điều, dung tục của hạng người trong bao. Kẻ hủ lậu lên mặt đạo đức giả, dạy đời bằng bài học luân lí cổ lỗ đã bị Sê- khốp châm biếm qua một tình huống bi hài.

Chỉ một tháng sau bị xô ngã, Bê-li-cốp chết. Trước khi đi chầu Diêm Vương, hắn không quên cất tấm ảnh Va-ren-ca để trên bàn đi. Hắn nằm trong quan tài với vẻ mặt “hiền lành, dễ chịu, tươi tỉnh”. Phải chăng hắn “mừng” vì được “chui vào cái bao” vĩnh viễn. Đám ma hắn được cử hành trong một buổi , trời mưu dầm âm u”. Lúc hạ huyệt, Va-ren-ca “bỗng òa lên khóc”. Nàng khóc vì thương tiếc một thiên tình sử chăng? Nàng khóc vì thương hại một con người bảo thủ, cổ hủ từng làm trò cười cho thiên hạ chăng?

Sau khi Bê-li-cốp chết, lúc đầu ai cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng rồi chưa đầy một tuần sau, ai cũng cảm thấy “nặng nề, mệt nhọc, vô vị” vì cuộc sống đã lại diễn ra như cũ, “chẳng tốt đẹp gì hơn trước”. Một Bê-li-cốp chết, một người trong bao đã về chầu âm phủ nhưng còn lại bao nhiêu người trong bao, và “trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa!”. Sê- khốp đã chỉ rõ: lối sống tầm thường, hủ lậu, giáo điều, dung tục đã đầu độc con người, đầu độc cuộc sống, sẽ gây bao hậu quả nặng nề, sẽ tồn tại dai dẳng trong xã hội Nga những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

Mọi quái thai, mọi ung nhọt trong xã hội xưa nay đâu dễ một sớm một chiều mà tiệt nọc, mà bị quét sạch! Một Bê-li-cốp chết đi nhưng sẽ còn lại bao nhiều Bê-li-cốp nữa. Chí Phèo đã ngoẻo nhưng Thị Nở vẫn còn, và cái lò gạch cũ vẫn còn đó. Cái loại người “mũ nỉ che tai”, “vòi rụt cổ”, “hủ lậu mà tinh tưởng” thời nào, xã hội nào chẳng có! Phải biết coi khinh lối sống cổ hủ, coi khinh tính cách bọn người trong bao. Phải biết sống và dám sống với tinh thần tự chủ, sống có trí tuệ và đạo đức của con người mới. Đọc truyện “Người trong bao”, ta tự hỏi bản thân mình phải sống như thế nào cho đáng sống: Sê-khốp đã có một lối viết khá hấp dẫn. Diễn biến câu chuyện được kể một cách tự nhiên, chân thực và sinh động. Nhân vật Bê-li-cốp từ vật dụng, cử chỉ, hành động, ý nghĩ đến lối sống được thể hiện bằng nhiều chi tiết rất điển hình. Hắn là sản phẩm tất yếu của một xã hội tù túng, trì trệ.

Nhân vật Va-ren-ca là một nét vẽ tương phản đầy ấn tượng. Nàng yêu đời, sống hồn nhiên, hay hát, hay cười, động một tí là cười phá lên. Cuộc sống tự do, phóng túng của hai chị em Va-ren-ca đã làm xao động cái không khí buồn thảm nơi tỉnh lẻ và đã làm “rách nát” cái bao của Bê-li-cốp, đẩy hắn ta xuống nằm yên trong quan tài – cái bao nơi âm phủ. Bức tranh biếm hoạ, cái ngã cầu thang, cái chết lặng lẽ và đám ma của Bê-li-cốp có giá trị và ý nghĩa phê phán, châm biếm sâu cay.

“Người trong bao” là một truyện ngắn đầy dư vị đưa độc giả “tự đi tìm bóng mình và soi vào bóng người” để mà sống có ý nghĩa hơn như văn hào Lỗ Tấn đã nói.

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 2

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 5

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 2

Văn học làm đẹp trái tim, tâm hồn con người, nó rung lên trong mỗi chúng ta những cảm xúc tế nhị hay mãnh liệt để con người vươn tới tự do, dân chủ, vươn tới thế giới của tình thương, của sự hoàn thiện, hoàn mỹ. Nhà văn thể hiện tất cả điều đó thông qua hình tượng, “làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, những hiện tượng đáng làm ta suy nghĩ về tính cách số phận, về tình đời, tình người”. Tác phẩm có giá trị là tác phẩm luôn chứa đựng khoảng trắng nhằm kích thích sự tìm tòi khám phá của người đọc, chính hình tượng nghệ thuật là nơi ẩn chứa, tiềm tàng những khoảng trắng đó.

Ra đời cuối thế kỷ XIX (1898), “Người trong bao” của An-tôn Sê-khốp với hình tượng thầy giáo Bê-li-cốp đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc không chỉ trong lòng độc giả nước Nga mà còn độc giả thế giới. Hơn thế kỷ trôi qua, nhưng tác phẩm vẫn đứng vững trong lòng người đọc, tại Việt Nam nó được chọn để dạy học trong Ngữ văn 11, chương trình nâng cao. Có lẽ chính việc xây dưng thành công hình tượng nhân vật Bê-li-cốp đã khẳng định chỗ đứng của “Người trong bao”, vì qua đó, những mạch ngầm văn bản cứ hiện dần trong lòng người đọc.

Hình tượng Bê-li-cốp hiện lên thông qua 2 lớp ngôi kể, ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba. Ngôi thứ ba được kể bằng hình tượng người kể chuyện là tác giả, ngôi thứ nhất “tôi” người kể chuyện là một nhân vật trong câu chuyện, thầy giáo Bu-rơ-kin kể với bác sĩ I-van I-va-nứt về thầy giáo Bê-li-cốp trong một chuyến đi săn. Như vậy đã có sự lòng ghép ngôi kể trong ngôi kể, ngôi thứ nhất được lòng trong ngôi kể thứ ba, câu chuyện của thầy giáo Bu-rơ-kin kể với bác sĩ I-van I-va-nứt về thầy giáo Bê-li-cốp được lồng trong câu chuyện mà tác giả kể với đọc giả về câu chuyện đó. Đưa cách kể mang tính chủ quan lòng vào ngôi kể mang tính khách quan là một sự lựa chon khéo léo. Tác giả đang khách quan để kể về câu chuyện người khác kể lại, tác giả chỉ như một người ghi chép lại những gì mà thầy giáo Bu-rơ-kin kể, vì vậy, câu chuyện vừa tạo được tính thuyết phục trong người đọc lại vừa được kể lại như là sự chứng kiến của một người trong cuộc, nhìn nhận được mọi khía cạnh, mọi vấn đề.

Kéo theo nhưng vấn đề đấy là giọng điệu, ở đây giọng điệu kể chậm rãi vừa giễu cợt, châm biếm, mỉa mai vừa u buồn… Qua hình tượng nhân vật người trong bao, Bê-li-cốp, tác giả phê phán sâu sắc lối sống hèn nhát, bạc nhược, bảo thủ và ích kỷ của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỷ XIX. Từ đó, nhà văn khẩn thiết thức tỉnh mọi người hảy thay đổi cách sống, lối sống kiểu “trong bao” nếu muốn có cuộc sống ý nghĩa.

Ngay nhan đề tác phẩm cũng là một tính hiệu thẩm mỹ. Xét về nghĩa đen bao là vật dùng để đựng đồ, bọc đồ, có tác dụng che đậy, bảo vệ, gói ghém… Nghĩa bóng là lối sống và tính cách của Bê-li-cốp luôn thu minh trong bao, một môi trường xã hội thối nát, cũ kỷ đã bao bọc làm thay đổi bản chất con người. Như vậy có một vấn đề đạt ra là nhân vật Bê-li-cốp, người trong bao, chủ thể bị “bỏ” vào “bao” hay tự mình “chui” vào “bao”, nghĩa là tự anh ta tạo cho mình một cuộc sống lập dị kiểu trong bao hay do hoàn cảnh, đẩy anh ta “vào trong bao”?

Như vậy, nhân vật Bê-li-cốp là một hình tượng điển hình. Bê- ê- lin- xki cho rằng “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu của tính mới mẻ trong sáng tạo, hay nói đúng hơn là bản thân sức sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói rằng tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết”. Bê -li-cốp là một sáng tạo lớn của An-tôn Sê-khốp, hình tượng nhân vật này vừa hiện lên rõ nét là một nhân vật độc đáo, riêng biệt không lẫn với ai vừa là nhân vật đặc trưng, khái quát cho một kiểu người có lối sống “trong bao”, gấp sách lại người đọc vẫn thấy hiện lên một hình ảnh Bê-li-cốp bằng da, bằng thịt, có những tính cách, suy nghĩ, hành động lời nói kiểu “trong bao” và cũng thấy đâu đây hình ảnh nhân vật này trong cộng đồng người, đâu đó trong xã hội Nga đương thời và cả trong xã hội hiện đại ngày nay.

Bê-li-cốp, vừa là sản phẩm của chính cá nhân anh ta vừa là sản phẩm của xã hội. Ngoài những tính cách cá nhân như đã nói ở trên, Bê-li-cốp còn là con đẻ của xã hội Nga lúc bấy giờ. Chúng ta biết rằng cuối thế kỷ XIX xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề. Chính môi trường ấy đã đẻ ra lắm thứ sản phẩm người kỳ quái.

Kết cục nhân vật Bê-li-cốp chết, nguyên nhân trực tiếp cũng do những suy nghĩ kiểu “trong bao”. Bê-li-cốp chết là kết thúc cuộc đời một cá nhân, quan tài đựng thi thể y chính là cái “bao” kính đáo nhất. Cái chết của Bê-li-cốp là hậu quả tất yếu của cách sống, kiểu sống đó. Chết là kết thúc cuộc đời, là sự chôn vùi một con người những liệu có chôn vùi được kiểu người “trong bao” không. Khi còn sống Bê-li-cốp đã làm cho mọi người sợ hãi, kể cả đồng nghiệp, thẩm chí là lãnh đạo của anh ta vì thế ai cũng ghét bỏ, nghĩa là anh ta là người mâu thuẩn với tất cả mọi người, là tượng trưng cho xấu xa, nên khi anh ta chết mọi người từ nghĩa địa trở về lòng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái.

Những xét cho cùng lối sống của anh ta có ảnh hưởng không nhỏ tới cộng đồng, kiểu sống trong bao, kiểu sợ hãi, nhút nhat, rập khuôn đó đã lan ra cả cộng đồng vì vậy mọi người đều sợ anh ta, mỗi lần Bê-li-cốp dọa báo thanh tra, cấp trên…thì mọi người đều run sợ, nhân vật tôi từng tâm sự “Bọn giáo viên chúng tôi đều sợ hắn. Thậm chí cả hiệu trưởng cũng sợ hắn….cái thằng cha quanh năm đi dày cao su và mang ô ấy đã khóng chế cả trường học chúng tôi suốt mười lăm năm trời … Mà đâu phải chỉ có trường học! Cả thành phố nữa ấy!”. Chứng tỏ rằng Bê-li-cốp có ảnh hưởng, lây lan tới cộng đồng, tác động ngược trở lại đối với cộng động. Như vậy lối sống trong bao không chỉ có ở Bê-li-cốp mà có trong mọi người ở thành phố ấy, một con người với cách sống như vậy mà đã từng khống chế được cả một ngôi trường thậm chí cả thành phố trong hơn mười lăm năm thì cộng đồng đó, thanh phố đó hơn gì cách sống của Bê-li-cốp?

Cái bao còn mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát được. “Người trong bao”, một hình tượng có tính ẩn dụ vô cùng độc đáo để phản ánh bộ phận trí thức bạc nhược, ươn hèn và qua đó lên án, đả kích chính cái đã sản sinh ra bộ phận trí thức bạc nhược, ươn hèn ấy: chế độ xã hội Nga hoàng cuối thế kỉ XIX.

Sau cái chết của thầy giáo Bê-li-cốp, môi trương, lối sống của xã hội đo có gì thay đổi, có gì tiến bộ, nhân vật tôi vẫn tâm sự “Chưa đầy một tuần sau cuộc sống lại diễn ra như cũ, nặng nề, mệt nhọc, vô vị, một cuộc sống chẳng bị chỉ thị nào cấm đoán nhưng cũng chẳng tự do hoàn toàn, chẳng tốt đẹp gì hơn trước. Trên thực tế, Bê-li-cốp đã chầu âm phủ nhưng hiện còn bao nhiêu là người trong bao, trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa!”, Vậy vấn đề ở đây là gì? Làm thế nào để thay đổi và thay đổi gì mới là bản chất. Rõ ràng vấn đề không phải là chống lại, tiêu diệt những “người trong bao” mà là phải thay đổi, xoá bỏ môi trường đã sản sinh ra những “người trong bao” ấy. Chừng nào cái chế độ tàn bạo, thối nát, bất công ấy còn tồn tại thì những sản phẩm và cũng là nạn nhân của nó vẫn không thể mất đi. Văn học thế giới cũng đã từng có nhiều hình tượng nhân vật sống theo kiểu chạy trốn thực tại, từ chối hiện tại ví như hình tượng nhân vật Oskar trong tác phẩm “Cái trống thiếc” của Gunter Grass. Phải chăng Bê-li-cốp với cách sống tron bao củng là một lựa chon?

M.Gorki đã từng nhận xét, đọc Sê-khốp, chúng ta thấy “phảng phất đâu đây nụ cười buồn buồn của một tâm hồn biết yêu thương”, “Tiếng thở dài khẽ sâu của một trái tim trong sạch”. Còn nhà văn Nguyễn Tuân khi đọc Người trong bao thì cho rằng: “Truyện Bê-li-cốp là một áng văn đả kích đến tuyệt đỉnh: hình thù tên họ nhân vật đã thành một cái sự, đã thành một hình dung từ ngày nay vẫn còn tác dụng lớn”. Phê phán những nhược điểm, tật xấu của Bê-li-cốp, cảm thương cho số phận của những con người sống trong môi trường ngột ngạt, thối nát xã hội Nga đương thời, đồng thời có dịp để soi lại chính mình nhằm vươn tới một cuộc sống lành mạnh, ý nghĩa hơn…

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 3

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 5

A.P.Sê-khốp (1860 – 1904) xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ bên bờ biển A-dốp, miền Nam nước Nga. Ông tốt nghiệp Đại học Y khoa, vừa làm bác sĩ nông thôn vừa viết văn, viết báo và tham gia các hoạt động giáo dục, văn hóa, xã hội. Sê-khốp đã có những đổi mới táo bạo về nghệ thuật viết truyện ngắn và kịch, ông đã để lại cho đời hơn 500 tác phẩm mà nội dung thường xoay quanh những vấn đề có ý nghĩa xã hội và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Sê-khốp được trao Giải thưởng Pu-skin năm 1887 và được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga năm 1890. Ông được tôn vinh là nhà văn lớn của nền văn học Nga thế kỉ XIX.

Truyện ngắn Người trong bao sáng tác năm 1898, trong thời gian Sê-khốp an dưỡng ở thành phố l-an-ta. Xã hội Nga đương thời đang ở tình trạng bế tắc và ngạt thở bởi bầu không khí chuyên chế nặng nề. Môi trường ấy đã đẻ ra những kiểu người kì quái mà Bê-li-cốp là một nhân vật điển hình đặc sắc của nhà văn sê-khốp trong tác phẩm Người trong bao. Qua truyện ngắn này, Sê-khốp phô phán mạnh mẽ kiểu “người trong bao”, “lối sống trong bao” cùng tác hại của nó đối với hiện tại và tương lai nước Nga; đồng thời cảnh báo và kêu gọi mọi người cần phải thay đổi cách sống, không thể sống tầm thường, hèn nhát, ích kỉ, vô vị và hủ lậu mãi như thế.

Truyện kể về Bê-li-cốp, một giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp có có cuộc sống và tính cách dị thường. Anh ta luôn sợ hãi cho nên không bao giờ dám bộc lộ ý nghĩ của mình trước người khác. Để tạo cảm giác an toàn, Bê- li-cốp đi giày cao su, che ô, mặc áo bành tô cốt bông, đeo kính đen, kéo cổ áo lên cao giấu kín mặt. Trong cái vỏ bọc linh kỉnh đó, anh ta thấy yên tâm.

Bê-li-cốp say mê và tôn sùng quá khứ đến mức cực đoan. Theo anh ta thì tiếng Hi Lạp cổ là một ngôn ngữ tuyệt vời hơn hết thảy, nhờ nó mà anh ta có thể trốn tránh hiện thực. Thói quen của Bê-li-cốp là đến nhà những giáo viên cùng trường, tự kéo ghế và ngồi im lặng khoảng một tiếng rồi về. Đó là cách anh ta duy trì quan hệ đồng nghiệp. Khi đi ngủ, anh ta thường đóng cửa kín mít rồi kéo chăn trùm đầu mặc dù trời rất nóng, vì sợ nhỡ có việc gì xảy ra thì sao ?

Phân tích truyện ngắn Người trong bao của A.P.Sê-khốp văn 11Bê-li-cốp định ngỏ lời cầu hôn với Va-ren-ca, chị gái của một giáo viên trẻ mới về trường. Có kẻ nào đó đã vẽ bức tranh châm biếm dề dòng chữ Một kẻ si tình rồi gửi cho Bê-li-cốp. Hôm sau, anh ta ngạc nhiên khi nhìn thấy hai chị em Va-ren-ca và Cô-va-len-cô phóng xe đạp rất nhanh ngoài đường nên quyết định sẽ góp ý với họ. Cô-va-len-cô nổi nóng cự lại và đẩy Bê-li-cốp ngã lộn nhào xuống cầu thang, đúng lúc Va-ren-ca đi đâu về. Va-ren-ca nhìn thấy cảnh đó và cất tiếng cười nhạo báng.

Trở về nhà, Bê-li-cốp vừa buồn bực vừa nhục nhã. Anh ta trùm chăn kín mít và nằm im lặng trên giường, ai hỏi gì thì chi đáp không hay có. Một tháng sau thì anh ta chết. Cái bao thường dược dùng để gói, đựng đồ vật, hàng hóa, có hình túi hoặc hình hộp. Sê-khốp đã biến nó thành một biểu tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa ngụ ngôn trong tác phẩm của mình. Cái bao được tác giả nhắc đến nhiều lần và gắn chặt với nhân vật Bê-li-cốp. Nhà văn đã dùng hình ảnh cái bao để nói về lối sống, tính cách của Bê-li-cốp và hơn thế, ông đề cập đến kiểu “người trong bao”, “lối sống trong bao”, một kiểu người và lối sống phổ biến trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Đây là vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc của tác phẩm.

Bê-li-cốp luôn tự tin và tự hào về cách sống “đúng mực” của mình. Anh ta kinh ngạc và không thể chấp nhận lối sống tự nhiên của chị em Va-ren-ca; thực sự hoảng hốt khi có người dám vẽ bức tranh châm biếm chế giễu tình yêu của mình. Bê-li-cốp càng không hiểu nổi vì sao anh chàng giáo viên Cô- va-len-cô lại có thể đối xử thô bạo, bất nhã với mình đến như vậy ?!

Quả thật, Bê-li-cốp không hiểu gì về đồng nghiệp, về xã hội và cuộc sống xung quanh. Anh ta luôn đắm chìm trong quá khứ, trong những giáo điều cũ kĩ, lạc hậu, giống như cặp kính đen luôn che kín đôi mắt nhỏ. Bê-li-cốp quả thật là một con người lạc lõng, cô độc và kì quái, chẳng thể nào hòa hợp với mọi người.

Bê-li-cốp luôn trốn tránh cuộc sống hiện tại nhưng lại tôn thờ và ngợi ca quá khứ. Anh ta say mê tiếng Hi Lạp cổ mà rất ít người biết và cho đó là thứ tiếng tuyệt vời. Anh ta sống một cách rập khuôn, cứng nhắc theo những thông tư, chỉ thị của cấp trên, của chính quyền như một người máy vô hồn và cho rằng chỉ những bài báo cấm đoán điều này điều nọ mới là những cái rõ ràng. Bê-li-cốp sống trong tình trạng cô độc và luôn luôn lo lắng, sợ hãi, sợ tất cả. Lời nói cửa miệng: …sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì thì sao ? góp phần khắc họa tính cách nhút nhát đến mức lập dị của Bê-li-cốp.

Tính nết kì quặc của Bê-li-cốp còn được tô đậm qua thói quen đến nhà đồng nghiệp ngồi im như phỗng độ một giờ rồi cáo từ. Anh ta cho rằng đó là cách để duy trì mối quan hệ tốt với đồng nghiệp. Buồng ngủ của Bê-li-cốp cũng là một cái bao lớn mang hình dáng của một cái hộp. Đêm đêm, anh ta đóng chặt tất cả cửa lớn cửa nhỏ rồi trùm chăn kín đầu mà ngủ, mặc dù trời nóng bức, ngột ngạt.

Bê-li-cốp tự coi lối sống của mình là “chuẩn mực” nên thỏa mãn, hài lòng với những gì cổ lỗ, lạc hậu. Anh ta tuân thủ “lối sống trong bao” và khẳng định như thế mới là công dân tốt, là viên chức mẫn cán.Trên cơ sở triết lí sống “chui trong vỏ ốc” đó, Bê-li-cốp không thể nào chịu đựng và hiểu nổi cách sống cùng thái độ của mọi người xung quanh, cho nên anh ta hay phán xét và khuyên giải theo ý mình.

Lối sống “trong bao” của Bê-li-cốp đã ảnh hưởng không nhỏ đến cái xã hội nhỏ bé nơi anh ta dạy học. Ai cũng chán ghét và sợ hãi khi gặp anh ta, không muốn dây vào làrn gì. Cũng có người muốn thử thay đổi cách sống của Bê-li-cốp, song chẳng ăn thua. Lối sống “trong bao” ấy ám ảnh và tác động tiêu cực tới mọi người bởi suốt mười lăm năm trời, họ phải hít thở bầu không khí ô nhiễm do Bê-li-cốp tạo ra. Anh ta đã trùm một cái bóng nặng nề u ám lên bầu không gian của họ, khiến họ có cảm giác nghẹt thở. Mọi người sợ hãi, căm ghét và bị ám ảnh sâu sắc khi Bê-li-cốp còn sống. Bởi vậy khi Bê- li-cốp chết, mọi người nhẹ nhõm như trút đi được gánh nặng, cuộc sống thoải mái, dễ chịu hẳn ra.

Với Bê-li-cốp, cái chết này là một lôgic tất yếu trong sự phát triển của tính cách nhân vật. Lối sống “trong bao” bản thân nó đã là một cái chết, chết trong khi đang sống. Hơn thế, ngay trong lúc sống, khát vọng mãnh liệt nhất của Bê-li-cốp là được chui vào bao. Kể cả ý nghĩ, vốn là sở hữu của riêng mình anh ta cũng giấu kín, cho vào bao tuốt! Niềm hạnh phúc lớn lao của Bê- li-cốp là từ nay (sau khi chết), anh ta sẽ được nằm trong cái bao vĩnh viễn, không còn phải lo lắng nhỡ lại xảy ra việc gì thì sao?

Hình ảnh cái chết của Bê-li-Cốp là một trong những chi tiết quan trọng của tác phẩm. Bằng cái chết khá lạ lùng này, nhà văn đã tô đậm và đẩy tính cách của nhân vật lên tới điểm đỉnh. Cái chết của nhân vật Bê-li-cốp chỉ ra cho mọi người thấy thực chất lối sống “trong bao” và tính cách ấy đâu phải chi có ở một mình anh ta. Anh ta chết nhưng rồi mọi thứ lại đâu vào đấy, vẫn y nguyên. Cuộc sống vẫn nặng nề, mệt nhọc, vô vị, tù túng y như khi Bê-li-cốp còn sống và kiểu người như anh ta vẫn nhan nhản trên đời. Qua chi tiết ấy, nhà văn Sê-khốp nhấn mạnh rằng Bê-li-cốp chính là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đáng báo động trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Nó chỉ chấm dứt khi có một cuộc cách mạng xã hội thay đổi tận gốc rễ quan niệm sống, nếu không thì cũng giống như cái xác Bê-li-cốp nằm trong quan tài kia thôi. Mặc dù Bê-li-cốp chết nhưng lối sống “trong bao” của anh ta vẫn tồn tại.

Chẳng hạn vẫn có không ít người chẳng bao giờ dám sống thật, nói thật những điều mình nghĩ, hoặc chỉ lo vun vén cho cuộc sống cá nhân, trang bị đầy đủ cho cái bao của mình mà không cần biết đến những người xung quanh. Vì thế mà ý nghĩa thời sự của truyện ngắn Người trong bao cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn.

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 3

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 1

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 3

Sê-khốp là nhà văn lớn, là cây đại thụ trong nền văn học Nga, ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng những tác phẩm có giá trị vô cùng to lớn. Dưới ngòi bút của nhà văn, toàn cảnh xã hội Nga cuối thế kỷ XIX hiện lên một cách rất chân thật, đó là một đất nước ngột ngạt, tù túng, chuyên chế bảo thủ dưới thời kỳ nắm quyền của Nga hoàng. Nhà văn Sê-khốp có lối viết văn rất lôi cuốn, ngôn ngữ sinh động tự nhiên, phản ánh chân thực con người và xã hội Nga lúc bấy giờ.

Truyện ngắn Người trong bao được ông viết năm 1898, đã khắc hoạ thành công hình tượng nhân vật Bê-li-cốp, một anh giáo chức tỉnh lẻ với cái đầu chứa đầy thành kiến, qua đó tác giả châm biếm và đả kích những người tri thức Nga với lối sống “trong bao” cổ hủ, lạc hậu, thích phê phán, bất an trước những gì vượt ra ngoài giới hạn cho phép của mình, và tự coi đó là lỗi lầm của người khác.

Nhân vật chính trong truyện là Bê-li-cốp, một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp có lối sống rất kỳ lạ “sống đơn độc như những con ốc, con sên cố thu mình vào vỏ bọc”. Hắn khác thường trong cả cách sống và lối suy nghĩ dị hợm. Lúc nào cũng vậy, bất kể trời mưa hay nắng, thời tiết đẹp hay xấu hắn đều khoác lên mình một bộ trang phục hết sức kỳ cục. Hắn “đi giày cao su” tay cầm ô, mặc áo “bành tô ấm cốt bông”, hắn luôn mang theo bên mình chiếc bao làm bằng da hươu để dựng nào là ô, chiếc đồng hồ quả quýt, nào là dao nhỏ gọt bút chì, ngay cả bộ mặt hắn dường như cũng muốn để cả vào trong bao, bởi Bê-li-cốp luôn “giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên”.

Bê-li-cốp không sống như người thường, có lẽ hắn chỉ đang tồn tại mà thôi, hắn chán ghét cuộc sống, sợ hãi mọi thứ trên cuộc đời. Để bào chữa cho thái độ nhút nhát, hèn kém không dám đối diện với hiện tại của mình hắn luôn nhớ về quá khứ, “ca ngợi những thứ không bao giờ có thật”. Bê-li-cốp chọn dạy tiếng Hy Lạp, một thứ ngôn ngữ cổ, có lẽ đó là môn học an toàn, không có gì đáng phàn nàn “nhờ đó hắn có thể trốn tránh được cuộc sống thực”. Phải chăng đã quen với lối sống tù túng, ngột ngạt mà bất kể thứ gì anh ta muốn làm đều phải thông qua “chỉ thị, thông tư”, còn nếu như không có chỉ thị, thông tư hay bất cứ quy định nào thì đều không được làm.

Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất lạ thường và lẩm cẩm. Hắn cho rằng việc đến nhà các đồng nghiệp ngồi im cả tiếng đồng hồ không nói năng gì rồi rời đi là để “duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè”. Có thể nói Bê-li-cốp cũng sợ cô đơn nhưng hắn hoàn mất đi khái niệm về lẽ sống đúng nghĩa, “kẻ dị hợm” bao năm thao túng cả thành phố nhỏ bé này, làm tất cả mọi người đều đâm ra “sợ tất cả”, “cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy” khống chế cả trường học, ngay cả thầy hiệu trưởng cũng phải sợ hắn.

Ngay cả khi ở nhà, hắn cũng sống trong sợ hãi: “Mặc áo khoác ngoài, đội mũ, đóng cửa, cài then”, như kẻ mắc bệnh hoang tưởng hắn sợ bóng tối, sợ ánh sáng, sợ ăn trộm,… Và trong đầu luôn tồn tại cái suy nghĩ nhạt nhẽo “lỡ lại xảy ra chuyện gì”. Sê-khốp đã cho người đọc cảm nhận được cái lối sống ấy dường như đã bao trùm lên cả bầu trời một màu tối đen đáng sợ, những “người trong bao” họ đã chết ngay cả khi đang sống, chưa bao giờ cảm nhận được hạnh phúc, tâm hồn luôn nặng trĩu như người sống trong ngục tù âm u, lạnh lẽo.

Ấy vậy, mà một người dị biệt đã ngoài tứ tuần như Bê-li-cốp lại từng tính đến chuyện sẽ kết hôn. Mọi người ra sức ghép đôi cho hắn với nàng Va-ren-ca xinh đẹp, có lẽ họ nghĩ hắn sẽ thay đổi lối sống khi có tình yêu của một người phụ nữ sôi động, nồng thắm. Chỉ vì chuyện này, hắn đã suy nghĩ nhiều đến mức “gầy gò hẳn đi, mặt mày nhợt nhạt”, sự việc đến quá đột ngột khiến một kẻ hèn nhát sợ hãi đủ thứ trên đời như hắn lại càng “thu mình sâu hơn vào trong bao”. Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ với cái đầu chứa đầy thành kiến? Chỉ vì nhìn thấy chị em Van-ren-ca đi xe đạp giữa phố đã khiến hắn sửng sốt, tình yêu vì thế mà cũng phai mờ đi.

Cuộc đời của tên nhà giáo tỉnh lẻ Bê-li-cốp cũng thật là bi hài! Chẳng phải vậy thì sao chỉ bằng “tiếng cười phá lên” của Va-ren-ca khi chứng kiến hắn bị xô ngã nơi chân cầu thang, đã có thể chấm dứt tất cả “chuyện cưới xin” và “cả cuộc đời của Bê-li-cốp”. Một tháng sau Bê-li-cốp chết, vẻ mặt hắn lúc nằm trong quan tài “hiền lành, dễ chịu” và có phần “tươi tỉnh” chắc vì đang hạnh phúc khi được vĩnh viễn chui vào trong cái bao của mình, không còn phải đối diện với cuộc sống ngoài kia nữa. Đây quả là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt, một người sao có thể ngủ “không bao giờ dậy nữa” chỉ vì một tiếng cười? Nhưng đối với Bê-li-cốp đấy là cả một sự nhục nhã, một kẻ luôn sống với giáo điều, một kẻ đạo đức giả chuyên dạy đời người khác như hắn thì đó quả là một sự đả kích quá lớn đến nỗi không có cách nào vượt qua.

Cứ ngỡ Bê-li-cốp chết đi, cuộc sống trong thành phố sẽ thay đổi màu sắc mới, không khí mới. Nhưng không, cuộc sống “nhẹ nhàng thoải mái” chẳng thể nào kéo dài lâu, thay vào đó là cuộc sống vô vị, nhàm chán “chẳng khác lúc trước là bao”. Những kẻ “sống trong bao” không chỉ có mình Bê-li-cốp mà họ đầy rẫy trong xã hội Nga khi ấy và “trong tương lai sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa”. Nhà văn Sê-khốp đã tái hiện thành công cái lối sống dung tục, tầm thường, lạc hậu, sặc mùi giáo điều đã đầu độc người dân, đẩy họ vào cuộc sống đau khổ, tù túng, đã để lại bao hệ quả nặng nề tồn tại trong đất nước Nga cuối thế kỷ XIX. Ngôn ngữ chân thực, mộc mạc mà không kém phần sinh động đã góp phần xây dựng cốt truyện lôi cuốn hấp dẫn người đọc, tạo nên một hình tượng nhân vật đặc sắc điển hình “Người trong bao”.

Người trong bao của Sê-khốp là một tác phẩm mang lại cho người đọc thật nhiều cảm xúc, vừa bi hài vừa đáng để suy ngẫm, vừa tiếc thương cho một kiếp người sống vô nghĩa. Qua truyện ngắn, nhà văn không chỉ phản ánh khách quan hiện thực xã hội Nga lúc bấy giờ, mà ông còn khéo léo nhắc nhở mỗi con người: Hãy nhìn cuộc sống với sự lạc quan vốn có, giữ cho tâm không phê phán, hơn thua. Nếu ta cảm thấy cuộc sống không hạnh phúc, vấn đề không phải do một ai khác mà nó nằm ngay chính tâm ta.

Chúng ta hãy mở rộng tấm lòng với mọi người và với thế giới xung quanh, tiếp nhận những sự đổi mới để có được một cuộc sống hạnh phúc, ngập tràn tươi trẻ, đừng sống như nhân vật Bê-li-cốp, suốt đời sống trong cái vỏ bọc hài hước của mình, rồi đến cuối cùng cuộc đời chấm dứt trong vô vị, nhạt nhẽo.

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 10

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 1

Sê Khốp là một tác giả có sự nghiệp sáng tác đồ sộ với nhiều thể loại. Sê Khốp là một nhà văn Nga kiệt xuất, đại diện cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga, nhà cách tân thiên tài về thể loại kịch nói và truyện ngắn. Tác giả Sê Khốp có một truyện ngắn được nhiều người biết đến đó là truyện “Người trong bao”.

Năm 1898, tác giả sáng tác truyện ngắn trong thời gian ông đang dưỡng bệnh ở thành phố I-an-ta trên bán đảo Crưm, biển Đen. Hoàn cảnh xã hội nước Nga lúc này đang nghẹt thở dưới bầu không khí chuyên chế, u ám, nặng nề cuối XIX. Môi trường ấy đã sản sinh ra những con người như Bê-li-cốp, nhân vật chính trong truyện.

Nhân vật Bê-li-cốp có một tính cách rất lạ thường. Hắn có một khát vọng mãnh liệt là thu mình vào một cái vỏ, tạo cho mình một cái bao để ngăn cách. Ngay cả đến ý nghĩ của mình hắn cũng muốn cất vào trong bao, không bao giờ có ý kiến gì về một vấn đề nhỏ, to nào. Bê-li-cốp là một người tôn sung quá khứ, trốn tránh thực tại: Bê-li-cốp là một thầy giáo dạy tiếng Hi Lạp, một thứ tiếng không còn có tính thời sự, hắn luôn tìm cho mình một cách sống an toàn. Bê-li-cốp là một người ưa thích những cái rõ ràng: chỉ thị, thông tư, những bài báo cấm. Hắn là một con người sống máy móc, dập khuôn và giáo điều như một cái máy vô hồn. Tác giả đã làm nổi bật lên chân dung của một con người cô độc, nhút nhát, sợ hãi mọi điều, lúc nào cũng sợ “sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì”.

Bê-li-cốp duy trì mối quan hệ tốt với đồng nghiệp bằng cách đến nhà, ngồi im như phổng độ một giờ rồi xin cáo từ. Giáo viên, hiệu trưởng đều sợ hắn: các bà cô không dám tổ chức diễn kịch vào tối thứ 7, nhà tu không dám ăn thịt và đánh bài, người ta sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách,…

Bê-li-cốp tự tin và tự hào về cách sống của mình, nhưng hắn không biết rằng mọi người xung quanh ghê sợ, khinh ghét và chế giễu hắn. Do vậy, khi bị vẽ tranh châm biếm, thấy hình ảnh chị em Va-ren-ca đi xe đạp, hắn bị đối xử thô bạo, thật sự hắn không thể hiểu và cũng không thể chấp nhận được. Nhân vật Bê-li-cốp được phác họa lên như một dị nhân trong cuộc sống đời thường.

Và rồi, con người dị nhân ấy chết. Khi Bê-li-cốp bị va chạm vào cô Va-len-cô, Va-len-ca thấy vậy lại cười phá lên khi thấy hắn bị té. Chính bởi tiếng cười ấy, đã chấm dứt chuyện cưới xin và chấm dứt cuộc đời của Bê-li-cốp. Nhưng nguyên nhân cái chết của Bê-li-cốp không chỉ có vậy, mà còn nguyên nhân sâu sa hơn, đó là: với tạng người và cách sống của hắn, sớm muộn gì cũng phải tự tiêu diệt hoặc bị tiêu diệt. Cái chết đối với Bê-li-cốp chính là cái vỏ bao tốt nhất mà hắn mong muốn, cái chết sẽ giúp hắn thoát khỏi những gánh nặng và thấy nhẹ nhàng, thanh thản hơn.

Mọi người trong thành phố ấy cứ nghĩ, khi Bê-li-cốp chết đi rồi, cuộc sống của mọi người sẽ thỏa mái hơn, nhưng không ngờ sau khi Bê-li-cốp chết cuộc sống vẫn diễn ra như cũ, mệt mỏi, tù túng và vô vị. Đó chính là do người dân trong thành phố này đã chịu ảnh hưởng, tác động nặng nề, dai dẳng của lối sống, kiểu người như Bê-li-cốp. Chính người như Bê-li-cốp đã đầu độc cuộc sống trong sạch, lành mạnh của đạo đức, văn hóa nước Nga đương thời. Trong xã hội lúc bấy giờ, kiểu người như Bê-li-cốp mang tính phổ quát, điển hình. Nó sống lâu dài như một hiện tượng xã hội, một quy luật trong lịch sử phát triển của loài người, không chỉ ở nước Nga mà thôi.

Hình ảnh “cái bao” trong tác phẩm có ý nghĩa biểu tượng: nó là biểu tượng cho một loại người có lối sống trong bao đã và đang tồn tại ở nước Nga. Nước Nga thời ấy phải chăng cũng đang bị một cái bao khổng lồ vây hãm, ngăn chặn tự do. Qua truyện ngắn tác giả muốn lên án, phê phán kiểu người có lối sống trong bao, tác hại của nó đối với xã hội. Đồng thời tác giả cũng muốn cảnh báo, kêu gọi mọi người thay đổi cách sống, không thể mãi sống vô vị, hèn nhát như vậy được.

Truyện ngắn thể hiện được cuộc đấu tranh giữa con người với “cái bao” chuyên chế và khát vọng cuộc sống là mình, loại bỏ cuộc sống “trong bao”, thức tỉnh “con người không thể sống mãi như thế được”.

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 9

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 10

A.P Sê-khốp (1860-1904) là nhà văn hiện thực vĩ đại không chỉ của Nga, của châu Âu mà còn của cả thế giới với khối tác phẩm đồ sộ, đặc biệt là truyện ngắn. Trong vòng 24 năm lao động cần mẫn, Sê-khốp để lại cho nhân loại khoảng 500 tác phẩm truyện ngắn. Các tác phẩm truyện ngắn của Sê-khốp lột tả cuộc sống, tư tưởng tình cảm của mọi tầng lớp nhân dân Nga “trong buổi hoàng hôn” cuối những năm 70 của thể kỉ XIX mà chủ yếu là những những cuộc sống ti tiện, nhàm chán và nhỏ nhen với những thói hư, tật xấu của con người Nga đang u mê, lạc lối.

Từ những câu chuyện tủn mủn, những tiểu tiết nhỏ nhặt ấy Sê-khốp đã khái quát hóa những mảnh đời thành một thế giới thu nhỏ với đầy đủ những thối nát trong xã hội_con đẻ của chế độ Nga hoàng bấy giờ. Trên hết đó là tư tưởng nhân văn, lòng nhân đạo sâu sắc với khát khao giải “chắt lọc loại bỏ từng giọt nô lệ ra khỏi con người”, thức tỉnh ý thức con người về sự vô nghĩa của cuộc sống hiện tại, đồng thời khát vọng hướng tới tương lai. “Người trong bao” là một trong những tác phẩm như vậy: phê phán lối sống bảo thủ, thu mình trong bao, sợ sệt, yên phận, không chịu thức tỉnh, không dám xé vỏ của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỉ XIX và thức tỉnh mọi người “Không thể sống như thế mãi được”.

Dường như cả bộ mặt của hắn “cũng để ở trong bao”. Cả ý nghĩ của mình, Bê-li-cốp cũng cố giấu vào bao. Hắn không nói những điều mình nghĩ, hắn nói theo thông tư, chỉ thị, những lời nói rao giảng, giáo điều. Sự khô khan cứng nhắc của Bê-li-cốp được tái hiện trong từng lời kể tỉ mỉ của Bu-rơ-kin như một thước phim quay chậm chạp, dần dần để lộ từng chút từng chút một cái bao cùng hội chứng chạy trốn, chui tọt vào bao trong mọi trường hợp của hắn. Để trốn tránh thực tại, Bê-li-cốp lúc nào cũng ngợi ca, tôn sùng quá khứ, muốn trở về những cái không có thật. Sẽ là tuyệt biết bao nếu xã hội có những người hướng tới chân-thiện-mĩ hoặc khiêm tốn, cư xử chừng mực, vì mọi người…nhưng Bê-li-cốp không phải kiểu người tốt đẹp ấy. Hắn chỉ biết đến bản thân, một lối sống ích kỉ; không chỉ có vậy, hắn áp đặt mọi người, mọi chuyện xung quanh mình theo suy nghĩ cực đoan, thiển cận của hắn khiến cho mọi người cũng phát sợ theo: “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách…”

Nỗi sợ là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng “bế quan tỏa cảng” toàn bản thân của Bê-li-cốp. Nỗi sợ luôn tồn tại trong hắn một cách vô thức, nó vô hình nhưng luôn ẩn hiện trong hai con mắt hắn khiến cho mọi vật xung quanh đều gây cho hắn một nỗi bất an khôn lường. Thảm họa ở chỗ, chính vì sự hoảng loạn thái quá của bản thân, Bê-li-cốp đã tự khóa mình trong cái bao mà hắn đã tự tạo, không phải giam lỏng mà là tự thân khóa trái cánh cửa cuộc đời tươi đẹp để rồi chui vào và hít hà cái ngột ngạt trong bao. Nỗi sợ kia, nỗi hoang mang vô độ kia của Bê-li-cốp phải chăng cũng chính là nỗi sợ của một bộ phận không nhỏ người dân đương thời?

Sợ phải chuyển mình, sợ phải làm mới mình, sợ phải đấu tranh thay đổi, chấp nhận tồn tại trong một xã hội u tối, què quặt về mọi mặt… Thật thú vị là hai nhà văn hiện thực vĩ đại của nhân loại là Lỗ Tấn và Sê-khốp lại có nhiều điểm tương đồng đến như vậy. Lỗ Tấn và Sê-khốp cùng sống trong thời đại lịch sử mà xã hội trượt dốc không phanh, người dân sống mà không tự suy nghĩ hay hướng đến tương lai, những mảnh đời nheo nhóc cứ tuần tự tiếp diễn… Cả hai ông đều từ bỏ nghề y để chuyển sang chữa bệnh cho nhân dân của mình bằng thứ thuốc thanh lọc tâm hồn, thức tỉnh họ khỏi những u mê, ung nhọt bấy lâu.

Trở lại với Bê-li-cốp, chúng ta có chút thương cảm đối với hắn. Lẽ ra hắn cũng có thể lấy vợ, cô Va-ren-ca, chị gái của đồng nghiệp. Nhưng Sê-khốp không ru ngủ độc giả bằng kết thúc lãng mạn nên thơ. Việc gì đến rồi cũng sẽ phải đến, làm sao một người cứng nhắc, khô khốc đến đáng sợ như Bê-li-cốp có thể chấp nhận việc hai chị em Va-ren-ca và Cô-va-len-cô vô tư đạp xe mà cười nói trên phố như vậy được bởi việc đi xe đạp là “hoàn toàn không phù hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên” Đối với Bê-li-cốp mà nói thì hành động ấy là quá thể đáng, là không thể chấp nhận được. Các chị, các bà phụ nữ cười nói vô tư như vậy là làm loạn xã hội, hủy hoại xã hội?!?

Tình tiết đối thoại giữa Bê-li-cốp và Cô-va-len-cô càng làm bộc lộ rõ sự trong bao của Bê-li-cốp, sự bảo thủ của hắn khiến người đọc cảm thấy hả hê khi hắn bị Cô-va-len-cô đẩy ngã. Thương hắn nhưng trách hắn nhiều hơn. Khi bị ngã nhào mà hắn không hề quan tâm mình có bị thương không mà chỉ chăm chăm vào việc sợ bị người khác nhìn thấy, sợ làm trò cười cho thiên hạ. Tiếng cười của Va-ren-ca là một chi tiết rất đắt. Có người đã khẳng định chính tiếng cười vang ấy của cô là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Bê-li-cốp sau này. Song dù là vì lí do gì thì dường như, cái chết đối với Bê-li-cốp lại là sự giải thoát hoàn hảo nhất cho chính hắn và mọi người. Hắn được chui vào yên ngủ mãi mãi trong cái bao hoàn hảo, tuyệt vời nhất với hắn; không còn phải thấp thỏm “nhỡ có chuyện gì thì sao” khi ngủ trong phong hộp như trước nữa.

Tuy vậy, sự chấm dứt cuộc đời của một kẻ quái thái trong xã hội vẫn không thể diệt tận gốc mọi mầm mống của ung nhọt như Bê-li-cốp được. Một kẻ dị thường đã ra đi nhưng trong xã hội vẫn tồn tại bao nhiêu cái bao nữa, vẫn còn bao nhiêu kẻ sống mà như chết rồi nữa? Câu hỏi được người kể chuyện bỏ ngỏ càng làm tăng thêm sự ám ảnh về một tương lai mù mịt của những sự đời ảm đạm, nhỏ nhặt, tầm thường. Trong truyện, Sê-khốp đã sử dụng mười hai lần từ chỉ cái bao để miêu tả nhân vật chính. Chi tiết cái bao là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc và sáng tạo với tầng lớp biểu ý sâu sắc mang nhiều giá trị xã hội.

Ý nghĩa “Người trong bao” không chỉ dừng lại ở nước Nga, xã hội dưới chế độ Nga hoàng mà còn vươn xa hơn thế. Nó mang tầm vóc thời đại lịch sử, phản ánh, phê phán, thức tỉnh con người và cả xã hội sống có ý nghĩa hơn, hướng về tương lai phía trước. Ngoài những triết lí sống sâu sắc được thể hiện trong truyện, phải kể tới lối viết châm biếm nhẹ nhàng cùng chút hóm hỉnh gây cười, đặc biệt là hình tượng nhân vật Bê-li-cốp cùng cái bao người ám ảnh đã góp phần để tác phẩm trở nên bất hủ. Đó là bài học về cách sống, còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay với một số bộ phận thanh niên nước ta, hãy đừng thờ ơ, vô cảm, và thụ động, thu mình như người trong bao để rồi cuộc đời bị bóp nghẹt trong cái bao của chính mình.

Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” số 9

Tác giả phê phán mạnh mẽ kiểu người trong bao, lối sống trong bao bởi nó là hiện tượng tiêu cực ngăn cản bước tiến của xã hội. Thông điệp mà tác giả muốn gửi tới mọi người là hãy thay đổi cuộc sống cũ kĩ, hãy sống cho ra sống.

Đăng bởi: Nguyễn Bảo Trâm

Từ khoá: 10 Bài văn phân tích tác phẩm “Người trong bao” của Sê-khốp hay nhất

Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Tác Phẩm Hê

Dàn ý phân tích Hê-ra-clét đi tìm táo vàng

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác phẩm: “Hê-ra-clét đi tìm táo vàng”.

II. Thân bài:

1. Đặc sắc về nội dung:

* Nội dung chính của truyện: kể về hành trình đi tìm táo vàng để mang về cho nhà vua Ơ-ri-xtê.

* Chủ đề: Ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng.

* Hình tượng người anh hùng Hê-ra-Clét:

– Sức mạnh phi thường: Cuộc chiến đấu anh hùng của Hê-ra-clét với Ăng-tê trong hành trình đi tìm quả táo vàng:

Ăng-tê là con của thần Đất cho nên Ăng-tê luôn được thần Đất tiếp sức mạnh.

Hê-ra-clét ba lần quật Ăng-tê xuống đất tưởng gã khổng lồ chết hẳn nhưng hắn lại vùng dậy dưới sự giúp sức của Nữ thần Đất mẹ Gai-a.

Hê-ra-clét đã nhanh trí tìm ra điểm mạnh và điểm yếu của Ăng-tê nên đã giành được chiến thắng.

– Lòng nhân ái: Cuộc giải cứu thần Prô-mê-tê bằng tấm lòng nhân hậu của Hê-ra-clét trong hành trình đi tìm quả táo vàng:

Prô-mê-tê là vị thần đã trao cho con người một thứ vũ khí đặc biệt mà không có bất cứ loài vật nào dám xâm phạm nhưng lại bị thần Dớt trừng phạt bằng cực hình trong nhiều thế kỉ mà không hề kêu than.

Khi thấy cảnh tượng bất công như vậy, Hê-ra-clét đã ra tay giải cứu thần Prô-mê-tê và được thần đền ơn bằng cách chỉ đường cho Hê-ra-clét đi lấy được táo vàng.

– Trí tuệ thông minh: Cuộc đấu trí với thần Át-lát trong hành trình đi tìm quả táo vàng:

Do thần Át-lát đứng về phía các Ti-tăng chống lại thần Dớt nên bị thần Dớt trừng phạt bằng cách “khom lưng giơ vai chống đội bầu trời”.

Hê-ra-clét đã nhận lời chống đỡ bầu trời giúp cho thần Át-lát để thần Át-lát đi lấy táo vàng nhưng khi trở về, thần Át-lát lại dở trò đen tối muốn Hê-ra-clét chịu cực hình thay cho mình. Tuy nhiên, đã bị Hê-ra-clét nắm được mưu đồ.

Sau khi trải qua rất nhiều biến cố, Hê-ra-clét đã đem được táo vàng về cho nhà vua.

2. Những nét đặc sắc về nghệ thuật:

– Cốt truyện hấp dẫn.

– Yếu tố kì ảo, hoang đường:

Có sự xuất hiện của các vị thần như thần Đất, thần Biển, thần Át-lát, thần Prô-mê-tê,…

Ăng-tê mỗi lần ngã xuống đất đều được tiếp thêm sức mạnh từ thần Gai-a, gan của thần Prô-mê-tê bị đại bàng mỏ quắm mổ bụng ăn gan nhưng ban đêm nó lại mọc lại nguyên vẹn.

Thần Át-lát và Hê-ra-clét đều có thể chống đỡ bầu trời.

III. Kết bài:

– Khẳng định giá trị, ý nghĩa của tác phẩm.

Phân tích Hê-ra-clét đi tìm táo vàng

Không giống với những tác phẩm thần thoại mà chúng ta được học về các vị thần, truyện “Hê-ra-clét đi tìm táo vàng” lại kể về một người phàm nhưng có sức manh tựa thần linh. Tác phẩm “Hê-ra-clét đi tìm táo vàng” được trích trong thần thoại Hy Lạp, kể về chiến công lẫy lừng cuối cùng của người anh hùng Hê-ra-clét .

Truyện “Hê-ra-clét đi tìm táo vàng” ca ngợi người anh hùng cổ đại với những phẩm chất cao đẹp. Truyện kể về những biến cố mà Hê-ra-clét gặp phải khi đi tìm táo vàng cho nhà vua Ơ-ri-xtê và cách Hê-ra-clét chiến đấu, đối mặt với những biến cố, thử thách. Bên cạnh đó, truyện đã khắc họa thành công người anh hùng Hê-ra-clét với sự gan dạ, thông minh và có sức khỏe phi thường để chiến thắng mọi kẻ xấu.

Truyện đã xây dựng hình tượng nhân vật Hê-ra-clét với những phẩm chất tốt đẹp. Quá trình Hê-ra-clét đi tìm táo vàng cho nhà vua phải trải qua muôn vàn thử thách. Trước hết chẳng ai biết rõ cây táo có quả táo vàng mà nhà vua cần tìm ở đâu, “Ở biển Đông hay biển Mặt Trời lặn? Ở trong vùng sa mạc cát nóng hay dưới chân những ngọn núi tuyết phủ quanh năm? Người kể thì nhiều nhưng người đi thì xem ra chưa có một ai”. Điều đó đã đặt ra một khó khăn vô cùng to lớn đối với Hê-ra-clét. Cây táo vàng là món quà của Đất mẹ Gai-a tặng cho nữ thần Hê-ra làm quà mừng ngày nữ thần kết hôn với đấng phụ vương Dớt. Chính vì vậy, nữ thần Hê-ra vô cùng sung sướng và coi đây là món quà quý. Nàng cho người trông coi rất nghiêm ngặt bởi con rồng La-đông và ba chị em tiên nữ E-xpê-rit. Chúng ta có thể thấy nhiệm vụ đi lấy táo vàng là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn đòi hỏi Hê-ra-clét phải có ý chí vững chắc thì mới có thể lấy được táo vàng đem về cho nhà vua.

Trải qua bao thử thách như “giao đấu với hai cha con thần “Chiến tranh A-rét, đi tìm thần biển Nê-rê để hỏi đường”, đi lên cực Bắc, băng qua sa mạc,… chàng còn phải chiến đấu với gã khổng lồ Ăng-tê. Trong ba lần giao đấu, Hê-ra-clét cố gắng quật Ăng-tê xuống đất nhưng hắn không chết vì chiếc “bùa hộ mệnh” của mình. Biết được điều này, Hê-ra-clét đã lừa miếng sơ hở, nhấc bổng gã khổng lồ gian ác để nữ thần Đất Mẹ Gai-a không thể tiếp sức được cho đứa con của mình nữa. Bằng sức mạnh và trí tuệ của mình, Hê-ra-clét đã tạo nên chiến công vang dội khi hạ gục được cả thế lực thần thánh. Chúng ta có thể thấy, Hê-ra-clét chính là vị anh hùng vĩ đại với sức mạnh phi thường.

Không chỉ là một người tài giỏi, có sức mạnh tựa đấng thần linh, Hê-ra-clét còn là người có tấm lòng nhân hậu, luôn đứng ra để bảo vệ công lí, bảo vệ lẽ phải. Trong hành trình đi tìm quả táo vàng Hê-ra-clét đã bắt gặp thần Prô-mê-tê bị đóng đanh xiềng vào núi đá. Prô-mê-tê là vị thần đã trao cho con người một thứ vũ khí đặc biệt mà không có bất cứ loài vật nào dám xâm phạm. Thế nhưng vị thần này lại bị thần Dớt trừng phạt bằng cực hình trong nhiều thế kỉ mà không hề kêu than. Chứng kiến cảnh tượng xót xa và tàn nhẫn ấy, Hê-ra-clét đã ra tay giải cứu thần Prô-mê-tê. Cảm động trước tấm lòng của Hê-ra-clét Prô-mê-tê khuyên chàng hãy nhờ đến sự giúp sức của thần Át-lát nếu muốn lấy được quả táo vàng. Hành động cứu người của Hê-ra-clét là một hành động đáng kính vì không phải bất cứ ai cũng đủ can đảm để đứng ra bảo vệ lẽ phải.

Hành trình đi tìm táo vàng của Hê-ra-clét đã gần đến đích nhưng Hê-ra-clét vẫn phải trải qua cuộc đấu trí căng thẳng với thần Át-lát. Do thần Át-lát đứng về phía các Ti-tăng chống lại thần Dớt nên bị thần Dớt trừng phạt bằng cách “khom lưng giơ vai chống đội bầu trời”. Để thần Át-lát đi lấy táo vàng cho mình, Hê-ra-clét đã nhận lời chống đỡ bầu trời giúp thần Át-lát nhưng khi trở về thần lại dở trò muốn Hê-ra-clét chịu cực hình thay. Tuy nhiên Hê-ra-clét đã khôn khéo ứng phó với mưu đồ của thần Át-lát bằng cách bày tỏ sự biết ơn với sự giúp đỡ của thần Át-lát và đã nhanh trí bảo thần Át-lát ghé vai một lát để Hê-ra-clét đi kiếm tấm áo, tấm da lót vào. Nói xong Hê-ra-clét “chuồn nhanh ra khỏi gánh nặng bầu trời” để đem táo vàng về cho nhà vua.

Advertisement

Những nét đặc sắc về nghệ thuật góp phần tạo nên thành công trong việc khắc họa hình tượng nhân vật Hê-ra-clét. “Hê-ra-clét đi tìm táo vàng” có cốt truyện hấp dẫn, thời gian và không gian cổ xưa. nhân vật mang sức mạnh phi thường. Truyện còn chứa đựng các yếu tố kì ảo, hoang đường như sự xuất hiện của các vị thần như thần Đất, thần Biển, thần Át-lát, thần Prô-mê-tê,… Ăng-tê mỗi lần ngã xuống đất đều được tiếp thêm sức mạnh từ thần Gai-a, gan của thần Prô-mê-tê bị đại bàng mỏ quắm mổ bụng ăn gan nhưng ban đêm nó lại mọc lại nguyên vẹn hay thần Át-lát và Hê-ra-clét đều có thể chống đỡ bầu trời giúp cho câu chuyện trở nên li kì và hấp dẫn hơn.

Trang sách khép lại nhưng những dư âm về chiến thắng hào hùng của Hê-ra-clét vẫn còn vang vọng quanh ta. Truyện “Hê-ra-clét đi tìm táo vàng” cho đến này vẫn còn nguyên giá trị và được độc giả khắp nơi trên thế giới đón nhận. Truyện đã đem đến cho người đọc bài học về sự dũng cảm, về ý chí nghị lực thông qua cách xây dựng hình tượng nhân vật Hê-ra-clét.

Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Nhân Vật A Phủ Trong Tác Phẩm Vợ Chồng A Phủ Dàn Ý &Amp; 20 Bài Văn Phân Tích Nhân Vật A Phủ

I. Mở bài:

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

Giới thiệu nhân vật

II. Thân bài:

* Xuất thân của A Phủ

Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ. Trích câu dân làng nói về A Phủ.

Là con người không bao giờ lùi bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.

* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống Lý

Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà Thống Lý, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.

Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng, cày nương, cuốc mương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt

Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.

* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt:

Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”

Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ” vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.

Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lý. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.

* Đánh giá

Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lý thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt.

Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.

Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc: Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng

Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lý thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lý thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.

III. Kết bài:

Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

…………………

Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm tiêu biểu khi nhà văn Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm này rất đặc sắc sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó là những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ và mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về và có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa và cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi và thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên và cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và từ một hình ảnh đó đã để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, nhà văn làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.

A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm và A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này thì A Phủ mới bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này nhà văn mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ và chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ và sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận và A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé và với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu được . Sức sống tiềm tàng của A Phủ một người đã sớm được bộc lộ và không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật và hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của nhà văn Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.

A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng và yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình mà dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ đã vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.

Hơn vậy là chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt nên ở xã hội phong kiến miền núi đương thời và A Phủ bị người ta khinh thường với một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.

Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình thì A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn và mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều nhiều ngày, càng hút, càng tỉnh và càng đánh, càng chửi và càng hút”. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại về cảnh xử kiện độc đáo ấy và có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ và ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh những tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với những người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ và A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng nghìni công việc. A Phủ có thể đốt rừng và cày nương, vỡ nương, săn bò tót và bẫy hổ, chăn bò và chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng và có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ đã phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa và áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ đã chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình và có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò và A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng thì anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình lại . Ở trong nhà thống lí Pá Tra và sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường và anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh đã là giọt nước mắt của sự đắng cay và sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.

Tuy nhiên vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ và nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh phải chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh đã gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai và nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây và anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu và lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát và đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay , anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí và thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ đã để cho Mị đi theo và anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.

Sau khi vượt khỏi nhà thống lí thì A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng đã như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của những bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm và là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ thì được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp và không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.

Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, nhà văn Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng là với A Phủ là Mị và dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc và họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc nhất cũng là tác phẩm đề đời của nhà văn Tô Hoài trong tập “Truyện Tây Bắc”. Và một trong những thành công của truyện là nghệ thuật miêu tả nhân vật A Phủ. Khi miêu tả nhân vật A Phủ nhà văn đã cho thấy tài năng của mình khi bắt đầu kể chuyện từ thời điểm có ý nghĩa trong cuộc đời của A Phủ, để từ đó làm nổi bật lên tính cách của nhân vật. Và trong tác phẩm này, tác giả đã chú ý chọn lựa hai chi tiết tiêu biểu làm nên cá tính của A Phủ: Lần thứ nhất, lúc bị đánh trong cuộc xử kiện: “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá. Lần thứ hai là lúc được Mị cởi trói: “A Phủ quật sức vùng lên chạy”. Đó là sức mạnh phản kháng ở người nông nô nghèo miền núi.

A Phủ xuất hiện trong tác phẩm đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc, đó là cảnh A Phủ đánh A Sử, con trai thống lí Pá Trá, khi hắn dám phá đám chơi của A Phủ và đám bạn. Ta tưởng đây là nhân vật có quyền thế nhưng không A Phủ cũng giống như Mị, anh là người nông nô nghèo bị gia đình Pá Tra áp bức, bóc lột và trở thành tôi đòi, con ở, nô lệ cho gia đình thống lí.

Tuổi thơ của A Phủ đầy bất hạnh, mới mười tuổi đã phải mồ côi cả cha lẫn mẹ trong dịch bệnh đậu mùa. A Phủ trở thành đứa bé tứ cố vô thân không cha mẹ, không anh em, không có ruộng, không có bạc, đã vậy lại bị người làng xấu bụng bán xuống núi thấp để đối lấy thóc, A Phủ không chịu liền trốn lên núi cao lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê làm mướn. Đến lớn, A Phủ trở thành một chàng trai khỏe mạnh, chăm chỉ cày ruộng cuốc đất. Nhưng dù lớn lên trong cảnh nghiệt ngã, A Phủ vẫn hồn nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống tự nhiên, yêu chính nghĩa. Anh vẫn đem sáo, đem khèn đi tìm người yêu.

Tuy nhiên, đâu chỉ có vậy, số phận nghiệt ngã đã biến A Phủ trở thành nông nô cho nhà thống lí chỉ vì đánh A Sử, người đã phá đám chơi của A Phủ và đám bạn. Trước khi trở thành nông nô cho nhà Pá Tra, A Phủ phải tham gia xử kiện mà không phải lỗi của mình. Anh bị đánh đập dã man, tàn bạo “mặt A Phủ xưng lên môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Đến khi trở thành nông nô cho nhà thống lí Pá Tra, anh bị bóc lột sức lao động một cách tàn nhẫn ở ngoài gò ngoài rừng. Đặc biệt phải chịu hành hạ về nỗi đau tinh thần khi bị con ma trình mặt, phải chịu đựng những lời chửi rủa cay độc của mọi người và Pá Tra.

Nhưng một lần nữa, Tô Hoài lại cho thấy niềm tin của ông vào giá trị của con người. Nó không chỉ được thể hiện qua nhân vật Mị mà nó còn được thể hiện qua sức mạnh phản kháng ở nhân vật A Phủ. Điều này được nhà văn Tô Hoài chọn lựa chi tiết trong vụ xử kiện, khi bị bọn trai làng xô đến đánh, “A Phủ chỉ quỳ, im như tượng đá”. Nhiều người đọc đến đây cho rằng A Phủ hèn nhát, nhưng không, nếu hèn nhát thì sao A Phủ dám đánh A Sử có nạm vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo, ngược lại phải chăng hình ảnh “im như tượng đá” chính là một hành động của sự phản kháng, đó là biểu hiện bất tuân, nén nỗi căm giận vào trong lòng, không nói, không thanh minh đó chính là sức mạnh phản kháng tiềm ẩn bên trong con người nhân vật này.

Chính cá tính gan góc, mạnh mẽ đó của A Phủ đã tạo nên những con sóng ngầm ngày một mạnh mẽ bên trong anh. Khi hoàn cảnh càng trở nên nghiệt ngã, đau khổ thì sức phản kháng lại càng mạnh mẽ. Nó được thổi bùng trong lần miêu tả thứ hai về A Phủ của nhà văn Tô Hoài. Sự kiện bắt đầu khi A Phủ vô tình để hồ vồ mất bò do mải bẫy nhím, bị cha con thống lí Pá Tra phát hiện và bắt đứng trói vào cột không cho ăn, không cho uống. Nhưng nhờ sự đồng cảm, tình thương người của Mị, cô đã cởi trói cứu giúp A Phủ. Và trong hoàn cảnh giữa ranh giới của sự sống và cái chết, một lần nữa tinh thần phản kháng ấy lại trỗi dậy và được tài năng Tô Hoài thể hiện “A Phủ bỗng ngã khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay. A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Hành động của A Phủ có lẽ lúc đầu chỉ là ý nghĩ chạy trốn khỏi cái chết nhưng sau đó nó đã trở thành hành động đến với con đường giải phóng. Từ việc tìm đường đến nhận đường chính là ý thức làm người, là tinh thần phản kháng, là khát khao sống, khát khao được tự do và đó cũng chính là cơ hội tốt để sau này A Phủ làm du kích cống hiến cuộc đời mình cho sự nghiệp Cách mạng.

Có thể nói, nghệ thuật miêu tả nhân vật A Phủ đầy sắc sảo của Tô Hoài đã tạo nên một hình tượng nhân vật đầy nam tính. Khát vọng tự do công bằng được biểu hiện ở A Phủ âm thầm, mạnh mẽ, hồn nhiên và cũng thật đơn giản. Tính cách của A Phủ mang phẩm chất tiêu biểu của người đàn ông chân chính dân tộc Mông.

Hai lần miêu tả A Phủ ở hai thời điểm khác nhau có ý kiến trái chiều cho rằng lần miêu tả thứ nhất A Phủ đã cam chịu, cam phận đến lần thứ hai thì đó mới là sức mạnh phản kháng thật sự. Điều này không sai, bởi lẽ A Phủ để mặc cho họ đánh vì sức của A Phủ không thể địch lại với sức của hàng trăm người ở đó, nó là sức cường quyền áp bức lên một người nông nô nghèo thân cô thế cô và hơn nữa ở lâu trong cái khổ thì cũng quen khổ rồi, ở cái đất Hồng Ngài dưới ách thống trị của nhà thống lí Pá Tra thì đâu cũng vậy thôi. Đó cũng chính là sự cam chịu của người nông nô vùng núi cao khi chưa có ánh sáng của Đảng, chưa có sự giác ngộ, chưa biết đoàn kết tạo nên sức mạnh chống lại cường. Và chính lần miêu tả thứ hai khi A Phủ quật sức chạy, nó không chỉ thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ ở anh mà hành động quật sức chạy đó phải chăng là cơ hội để A Phủ chạy gần đến bên Cách mạng, được giác ngộ để làm du kích sau này. Từ đây, ta có thể thấy được tài năng am hiểu nội tâm con người của Tô Hoài, ông thật sự là một cây bút già dặn khi nhìn thấy hai mặt đối lập ở một con người A Phủ vừa cam chịu số phận nhưng cũng vừa mạnh mẽ, can trường, bất khuất. Đó cũng chính là niềm tin bất diệt của nhà văn vào tâm hồn, sức sống, sự phản kháng quyết liệt ở con người trên đường đi tìm hạnh phúc, tìm lại chính mình.

Như vậy qua nghệ thuật miêu tả cuộc đời, tính cách của nhân vật A Phủ, Tô Hoài đã tố giác giai cấp thống trị miền núi đại diện là cha con nhà thống lí Pá Tra đã đẩy con người hiền lành chất phác như A Phủ vào cảnh bị cướp đoạt sức lao động, cướp đoạt quyền làm người. Viết về điều đó, nhà văn đã cảm thông với những khổ đau, bất hạnh của họ đồng tình với sự phản kháng quyết liệt để mở ra một lối thoát cho những người nghèo lao động miền núi. Qua đây, một lần nữa thể hiện tài năng nắm bắt cá tính con người và tấm lòng nhân đạo vô bờ bến của nhà văn Tô Hoài.

“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật này.

A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ hơn.

Tô Hoài đã để cho A Phủ xuất hiện trong lần cọ xát, đánh nhau với A Sử, sau đó bị bắt và bị đánh đập dã man. Tiếp theo đó tác giả ngược dòng kể về hoàn cảnh của A Phủ. A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất vả những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình, bố mẹ, anh chị em. Để lại một mình A Phủ bơ vơ, cù bất cù bơ. Tình cảnh ấy thật khiến người đọc xúc động. Đáng buồn hơn nữa có người đã đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc. Nhưng tính cách gan góc, ngang bướng của A Phủ thì nó không thể trói buộc được anh. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn từ mùa này sang mùa khác. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A Phủ.

Từ khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều lĩnh, không chịu khuất phục, luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những điều tốt đẹp nhất “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Chính nghị lực và sức khỏe của A Phủ đã khiến cho nhiều người yêu mến anh. Dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, “ A phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Chính điều này đã tạo nên ấn tượng cho nhiều cô gái.

Nhưng A Phủ lại là người không cha không mẹ, không tiền không bạc, không ruộng nương thì lấy vợ là chuyện quá xa xôi. Một người đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc nhưng cuối cùng vẫn cô độc như thế.

Có lẽ hình ảnh A Phủ đánh A Sử khiến người đọc vừa dồn dập, vừa thương cảm cho con người này “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đầu xuống áo đánh tới tấp”. Hành động này vừa chứng tỏ A Phủ rất khỏe mạnh, vừa không hề sợ bọn địa chủ phong kiến tàn bạo. Nhưng đây cũng chính là nguyên cớ tạo nên mối thù sâu sắc giữa người nông dân nghèo và tầng lớp địa chủ, quý tộc. A Phủ đã bị thống lý Pá Tra đánh đập dã man, tàn bạo từ trưa đến đêm.Có thể nói nhà thống lý chính là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hủ tục, sự phân biệt giai cấp nặng nề, coi thường những người nông dân thấp cổ bé họng. Chúng coi A Phủ như một con vật, không hơn không kém. Bộ dạng A Phủ lúc đó thật thảm hại và đáng thương “A Phủ chỉ im lặng như tượng phật”. Sự im lặng đó chính là sự căm phẫn, uất ức đến tột độ nhưng cũng không thể làm điều gì hết.

Chỉ vì hành động đó mà A Phủ đã phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lý. Xã hội bây giờ dường như chỉ tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội mới hả hê, mới yên long.

Đến đây chúng ta lại liên tưởng đến nhân vật Mị, có lẽ A Phủ cũng như Mị, sống lay lắt héo hon trong ngôi nhà đầy oán hận này.

Cuộc đời của A Phủ cũng giống như Mị, từ đây sống hay chết cũng đều phó mặc cho nhà thống lý. A Phủ không có quyền lựa chọn cho mình con đường đi, không được chọn hạnh phúc cho mình. Suốt một đời này phải làm trâu làm ngựa cho nhà thống lý. Một sự thật nghiệt ngã đến đau long. Tô Hoài đã khiến người đọc không khỏi xúc động. Bằng ngôn ngữ đặc tả, tác giả đã tạo nên sự riêng biệt của A Phủ.

Bi kịch này nối tiếp bi kịch khác, chỉ vì để hổ vồ mất bò mà thống lý đã bắt trói A Phủ và đánh đập dã man. Sự đau khổ và tuyệt vọng in hằn trong đôi mắt ấy, đôi mắt ám ảnh người đọc đến tận tâm can. Cái chết hiển hiển trong tâm trí A Phủ và A Phủ ý thức rất rõ được điều này.

Có lẽ chính vì ý thức này đã làm nên sự vượt phá ở cuối tác phẩm khi Mị quyết định cởi trói và bỏ trốn cùng A Phủ. Có lẽ đây là đoạn văn khiến cho người đọc vừa hồi hộp, vừa xót xa vừa khâm phục.Con người ta khi bị bóc lột quá sức sẽ vùng lên đấu tranh để đi tìm con đường riêng. A Phủ thực sự đã làm được. Thoát khỏi nhà thống lý, A Phủ sẽ thành một người công dân có ích cho đất nước, đi theo tiếng gọi của cách mạng.

Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng nhân vật A Phủ, hình tượng điển hình của người nông dân trong xã hội phong kiến bị áp bức nhưng lại có khát khao sống mãnh liệt.

Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và từ một hình ảnh đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.

A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm, A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ, chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận, A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé, với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu. Sức sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ, không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.

A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.

Hơn vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh thường và một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.

Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình, A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có thể đốt rừng, cày nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.

Tuy vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ,nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ để cho Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.

Sau khi vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp, không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.

Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.

Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lòng người. Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong tác phẩm này

Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

Tác giả cho A Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau với A Sử con trai thống lí, rồi bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ phải ở trừ nợ. Sau đó mới kể lai lịch của A Phủ. Cách giới thiệu này vừa gây chú ý cho người đọc vừa nhấn mạnh tính cách mạnh mẽ của A Phủ.

Từ bé, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, không còn người thân thích trên đời, bị người làng bắt đem bán cho người Thái ở vùng thấp. Mới mười tuổi, A Phủ đã gan bướng, không thích ở cánh đồng thấp, trốn lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại giỏi cày và săn bò tót rất bạo”. Con gái trong làng nhiều người mê, họ kháo nhau “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Người ta đùa vậy thôi chứ A Phủ nghèo lắm. Không có cha mẹ, không có ruộng nương, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm sao A Phủ lấy nổi vợ. Nếu ở xã hội khác, A Phủ xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Thế mà A Phủ bị chà đạp, bị đối xử bất công. Nếu không được Mị giải thoát, chắc A Phủ đã chết trong tay cha con thống lí Pá Tra.

Cá tính gan góc của A Phủ đã bộc lộ từ năm 10 tuổi. Cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê vất vả cực nhọc hun đúc nên một A Phủ có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Vừa xuất hiện, A Phủ đã lôi cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dữ dội: “chạy vụt ra”, “vung tay ném”, “xộc tới nắm” “kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…”. A Phủ là một người thẳng thắn, nóng tính, thật thà, chất phác. A Phủ đánh A Sử để trừng trị thói con quan ỷ thế làm càn. Anh bị người nhà thống lí bắt, đánh suốt đêm đến mức “mặt A Phủ sung lên, môi và đuôi mắt chảy máu”, “hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”. Dù vậy, A Phủ “chỉ im như cái tượng đá” thể hiện sự gan góc, dám làm dám chịu. Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, anh vẫn là chàng trai của tự do. Dù phải quanh năm một mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa…”, việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề tính toán thiệt hơn.

Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “cho tôi mượn cây súng. Tôi đi lấy con hổ về”. Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí không cho, anh cãi lại cũng rất điềm nhiên. Anh không biết sợ cái uy của bất kỳ ai. Con hổ hay thống lí cũng thế thôi. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm việc ấy một cách thản nhiên. Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết.

Bị trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, anh nhai đứt hai vòng dây trói, song không thoát. A Phủ khóc tuyệt vọng. Nước mắt của chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến, chúa đất ở miền núi khi xưa.

Nhân vật A Phủ đã được khắc họa thành công, sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đơn sơ. Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm nét.

Tôi đã từng đọc ở đâu đó “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con người”. Và tôi biết một người nghệ sĩ như thế – một nhà văn viết về Tây Bắc bằng cả tấm lòng của mình, cả niềm thương nỗi nhớ luôn thường trực trong trái tim – Tô Hoài! Trong số những thành công của ông, không thể không nhắc đến “Vợ chồng A Phủ”- truyện ngắn mang giá trị sâu sắc, đặc biệt là hình ảnh nhân vật A Phủ.

Nếu hôm nay ta có “thấy Nguyễn Nhật Ánh trong tuổi thơ” thì Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài là quyển sách gối đầu của hàng triệu thiếu niên Việt Nam. Tô Hoài – nhà văn có lối viết rất riêng: đậm đà bản sắc dân tộc với những sáng tác thiên về sự thật đời thường. Ông có quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh độc đáo có phần quyết liệt “viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Trong chuyến đi thực tế dài tám tháng tại Tây Bắc với đồng bào các dân tộc thiểu số cùng ăn, cùng ở, cùng chung sống… Chính cuộc sống ấy đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để nhà văn hoàn thành tập Truyện Tây Bắc

A Phủ là nhân vật được tác giả cho xuất hiện khá đột ngột trong cuộc đánh nhau của thanh niên làng bên với A Sử rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Nhà văn để nhân vật đi vào trang văn bất ngờ, tự nhiên và đầy ấn tượng. A Phủ quê ở Háng-bla và tuổi thơ đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp cướp đi cả gia đình anh. A Phủ gan dạ, vừa ngang bướng đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, ngày qua ngày, mùa qua mùa, A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.

Một mình bươn trải, A Phủ đủ mạnh mẽ, gan góc, sống tự do phóng khoáng thì kết thúc bị trói buộc cả cuộc đời tại nhà thống lí. Chính sách áp bức của chúa đất đã đẩy người lao động phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời. Cảnh xử kiện A Phủ là minh chứng rõ ràng nhất về cách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và “Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ, chửi, lại hút”, cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Riêng A Phủ chỉ âm thầm chịu đựng, nuốt đắng cay mà chịu đòn đầy đau đớn.

Cảnh Pá Tra trói đứng A Phủ như một tình cảnh bị trói chờ chết như năm nào mà cô Mị đã phải chịu. Mị không lấy làm lạ. Bởi Mị đã quá quen với những tội ác thế này và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi rồi lé mắt trông sang, thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt đau đớn đã làm sống dậy ý thức và tình cảm của Mị. Ký ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột, nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Tình thương người còn lớn ngàn lần nỗi sợ hãi. Nó tiếp thêm sức mạnh và bản lĩnh để Mị hành động cứu A Phủ. Và Mị đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra và chạy theo A Phủ. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy thôi thúc họ phải đấu tranh để sống và được sống.

Nguyễn Minh Châu từng viết “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn của con người”. Với Tô Hoài, ông không chỉ tìm kiếm, phát hiện mà còn khơi nguồn vực dậy trong tâm hồn Mị sức sống, khao khát sống tưởng như đã bị héo mòn, bị chôn vùi bởi những thế lực tàn bạo. Qua đó nhà văn khéo léo gửi quan niệm về cuộc sống của bản thân vào nhân vật của mình rằng: Con người lao động, trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ luôn giữ bản lĩnh và sẵn sàng đấu tranh cho chính hạnh phúc của bản thân mình.

……………….

Những câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc cho bạn đọc về một vùng đất Tây Bắc với nhiều hoang sơ, bí ẩn. Khám phá Tây Bắc đâu chỉ có những hồn thơ của Chế Lan Viên. Ta còn từng bắt gặp Tô Hoài với riêng một tập truyện viết về phong tục về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Trong đó truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập truyện Tây Bắc. Truyện ngắn thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật và A Phủ là nhân vật tiêu biểu trong toàn bộ câu chuyện.

Tô Hoài là một nhà văn lớn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt đến kỷ lục. Hầu hết sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả sự thật của đời thường với trần thuật hóm hỉnh, sinh động hấp dẫn. Sáng tác của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống con người phong tục cũng như sinh hoạt của người dân Tây Bắc.

Vợ chồng A Phủ được trích từ tập truyện Tây Bắc sau chuyến đi thực tế của Tô Hoài năm 1952 trong một lần lên Tây Bắc. Truyện hướng tới phản ánh số phận của những người lao động miền núi Tây Bắc, đi từ số phận khổ đau đến cuộc đời mới tự do.

A Phủ là chàng trai người H’mông nghèo khổ bất hạnh. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ, bị người làng đem bắt bán cho người Thái ở dưới thấp, sau đó A Phủ trốn ngược về vùng cao và sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài, đi ở cho hết nhà này đến nhà kia. Đến tuổi trưởng thành, A Phủ vẫn nghèo, chỉ có hai bàn tay trắng nên không lấy nổi vợ.

Nhưng A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, cần cù, dũng cảm và tài ba: đốt rừng, làm nương, cuốc nương, chăn bò, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình tăng và biết đục cuốc. Đặc biệt, A Phủ luôn khao khát cuộc sống tự do phóng khoáng. Ngay từ khi mới lên mười, cậu bé A Phủ đã không chịu sống cùng người Thái dưới chân núi mà muốn trở lại vùng cao, chấp nhận cuộc sống nơi nay đây mai đó nhưng được là con chim của núi rừng tự do.

Từ một chàng trai tràn đầy sinh lực, bản tính mạnh mẽ, kiên cường luôn khao khát cuộc sống tự do, phóng khoáng. A Phủ bị giai cấp thống trị tàn bạo cột chặt vào kiếp đời nô lệ đau đớn tủi nhục. Nhưng nếu như nỗi khổ của Mị triền miên, dai dẳng, thầm lặng thì nỗi khổ của A Phủ được miêu tả tập trung qua hai cảnh đó là cảnh sự kiện phạt và và cảnh A Phủ bị trói đứng vì làm mất bò.

Cảnh sự kiện phạt vạ diễn ra chỉ vì A Phủ đã dám đánh lại con quan chính là A Sử rồi khiến cho A Phủ bị bắt về nhà thống lý chịu kiện. Một phiên tòa đặc biệt lạ lùng và tàn bạo đến mức chưa từng có. Công đường là nhà thống lí, quan tòa lại chính là thống lí Pá Tra. Thành phần tham gia xét xử đông đảo với đầy đủ chức sắc trong vùng, trịnh trọng trang nghiêm, chỉ có nằm hút thuốc phiện và ăn cỗ.

Nhân trứng lại là đám trai làng- những công cụ của thống lý. Còn bị cáo A Phủ thì không được trình bày, không được nghe luận tội mà chỉ luôn quỳ im mà chịu đòn. không khí phiên tòa diễn ra đầy nhốn nháo, náo loạn của tiếng kể, chửi bới, đấm đá và tiếng rít thuốc phiện, khói thuốc phiện ngào ngạt tuồn qua các ô cửa. Kết thúc xử kiện, A Phủ phải chịu một số tiền phạt và khổng lồ và phi lý.

Ngoài tiền cho người bị đánh, cũng phải trả toàn bộ tiền cho các quan, cho người đi gọi các quan về, toàn bộ số tiền hút thuốc phiện từ hôm qua đến hôm sau và cả một con lợn cho làng ăn cỗ. Tất cả lên tới một trăm đồng bạc trắng và Pá Tra thừa biết A Phủ không thể nào có tiền trả cho nên hắn đã cho A Phủ vay nợ, suốt đời làm trâu làm ngựa trả nợ cho hắn: đời mày, đời con, đời cháu mày bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Advertisement

Để sợi dây trói buộc thêm chắc chắn khi thì Pá Tra gọi con ma về nhận mặt người vay nợ rồi toàn bộ số bạc cho A Phủ vay lại hoàn nguyên vào túi của thống lý. Cuộc sống nô lệ tủi nhục của A Phủ bắt đầu từ giây phút ấy. Đau đớn, chân bước đi tập tễnh, A Phủ phải cầm dao đi giết lợn làm cỗ cho những kẻ vừa đánh đập chửi bới phạt vạ mình.

Và từ một chàng trai khỏe mạnh, dũng cảm, khao khát cuộc sống tự do, A Phủ đã phải sống một kiếp đời như trâu ngựa cùng với đàn trâu đàn ngựa nhà thống lý. Qua cách sự kiện phạt vạ, nhà văn Tô Hoài đã tố cáo bản chất tham lam, độc ác của giai cấp thống trị miền núi. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn thâm độc để áp mức cột chặt những con người lao động tự do vào kiếp đời nô lệ để bóc lột họ đến kiệt cùng.

Chỉ vì sơ ý làm mất một con bò nhà thống lý mà A Phủ phải chịu một hình phạt thật thảm khốc. Nỗi khổ nhục của A Phủ trước hết là tự tay đào lỗ chôn cột, lấy dây mây để cho người khác trói mình. A Sử đã trói A Phủ một cách tàn nhẫn: trói đứng A Phủ bằng một cuộn dây mây đến khi thống lý vào lại thòng thêm hai thòng lòng vào cổ làm cho A Phủ không cựa quậy được rồi bỏ mặc A Phủ trong đau đớn, đói rét cho tới chết để đền mạng cho con bò của gia đình thống lý.

Qua đó, ta thêm hiểu về tội ác dã man tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi Chúng coi sinh mạng của con người không bằng con vật và càng hiểu thêm nỗi thống khổ con người lao động khi bị đẩy vào kiếp đời nô lệ. Họ đã bị tước đoạt hoàn toàn quyền sống, quyền làm người.

Khi còn là một cậu bé lên mười, A Phủ chấp nhận sống nghèo khổ đi ở cho hết nhà này đến nhà khác để sống tự do và khi chứng kiến A Sử quấy rối phá đám cuộc chơi, A Phủ đã đánh hắn dù biết rằng đó là con quan. Trong cảnh xử kiện tàn bạo của thống lí Pá Tra, A Phủ không khóc, không kêu rên mà chỉ quỳ yên như cái tượng đá để chịu đòn.

Trước thế lực cường quyền ghê gớm, A Phủ đã bất lực phải chịu đựng nhưng ẩn trong thái độ đó là sự thách thức sự phản kháng ngầm. Trong đêm A Phủ bị trói đứng, chàng trai ấy đã nhay đứt mấy vòng dây mây để tự giải thoát cho mình. Chỉ khi bị cho thêm hai thòng lọng vào cổ, A Phủ mới bất lực.

Sức mạnh của tinh thần phản kháng và lòng khao khát rõ nhất khi A Phủ được Mị cởi trói. A Phủ đã ngã quỵ xuống vì kiệt sức nhưng sau đó A Phủ đã quật tức vùng lên chạy khỏi nhà thống lí. Có lẽ lòng khao khát được sống, được tự do và tinh thần phản kháng ở chàng trai nô lệ ấy đã tạo nên nguồn sức mạnh vô biên khiến cho A Phủ không chỉ được cứu mình mà còn cứu được Mị chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, để được sống tự do chấm dứt kiếp đời nô lệ.

Tô Hoài đã xây dựng nhân vật A Phủ bằng bút pháp điển hình hóa, vừa cụ thể vừa khái quát. Cả A Phủ và Mị đều có những phẩm chất số phận tương đồng nhưng cách khắc họa nhân vật của nhà văn đã có những thay đổi và sáng tạo để phù hợp với con người hiện thực. A Phủ là được khắc họa qua ngôn ngữ và hành động. Những biểu hiện, lời nói và hành động của A Phủ thường ngắn gọn, dứt khoát quyết liệt rất phù hợp với tính cách và góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.

Khép lại trang viết về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với hình ảnh của A Phủ và Mị đã để lại trong người đọc nhiều suy nghĩ. Nhà văn đã rất thành công khi tái hiện được hình ảnh của A Phủ và Mị với những sức sống với sức mạnh phản kháng vươn lên mạnh mẽ bất chấp hoàn cảnh. Tác phẩm sẽ sống mãi cùng với thời gian và đồng hành cùng bạn đọc các thế hệ.

Cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để Tô Hoài hình thành Truyện Tây Bắc trong đó có Vợ chồng A Phủ. Vợ Chồng A Phủ đã đặt ra vấn đề về số phận con người, những con người bị bóc lột cả về thể xác lẫn tâm hồn. Một trong những số phận đầy bất hạnh đó chính là nhân vật A Phủ.

A Phủ có một cuộc đời đầy khổ đau tủi nhục. Ngay từ nhỏ, A Phủ đểu mồ côi cha mẹ. Năm đó, làng Háng -Bla phải một trận bệnh đậu mùa. Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Chỉ còn sót lại có một mình A Phủ. Cuộc đời A Phủ từ đó bơ vơ vất vưởng.

Cũng chỉ vì cái đói, vì miếng ăn mà A Phủ bị người ta bắt đem đổi lấy thóc. Có một người trong làng vì đói quá đã nhẫn tâm bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy cắp của người Thái dưới cánh đồng. Nhưng với bản tính ngang bướng, A Phủ tìm cách trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ đó A Phủ sống một cuộc sống phiêu bạt. Cuộc đời anh không nhà cửa, không ruộng nương, phải đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác.

Năm tháng qua đi, chẳng bao lâu A Phủ đã biết hết các công việc. Cuộc sống đã rèn luyện A Phủ thành một con người vững chãi. A Phủ biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo. A Phủ lại rất khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê. Có người còn khen rằng: “đứa nào được A Phủ cũng bằng con trâu tốt trong làng”.

Tuy nghèo khó, khổ cực nhưng A Phủ cũng sống đầy khát khao. Ngày Tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. Anh ung dung tự tại giữa cuộc sống đầy khắc nghiệt chốn Hồng Ngài.

Thế nhưng, vận rủi đã đến với anh và chuyển hướng cuộc đời anh đến chỗ thảm khốc. Vì xích mích với đám trai làng trong lúc đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử, con trai thống lí Pá Tra đến chảy máu. Hành động bột phát ấy đã mang tai họa đến với A Phủ. Anh bị đám trai làng bắt trói và đưa về nhà thống lí để chịu tội.

Từ một thanh niên tự do bỗng dưng A Phủ trở thành nô lệ. Cuộc đời nhân vật A Phủ là điển hình của cảnh áp bức bóc lột ở chốn Hồng Ngài. Bọn thống trị dựa vào đầu óc mê tín của người dân, lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức, bóc lột sức lao động của họ.

Qua cảnh sử kiện tại nhà thống lý, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được bộ mặt dã man tàn bạo của bọn thống trị miền núi. Bọn thống trị bằng sức mạnh của mình đã chà đạp lên quyền sống của con người, tước đoạt ở họ quyền làm người tự do. Không những thế, chúng còn hành hạ thân xác con người tàn tệ như đối xử với thú vật.

A Phủ bị bắt khiêng về ném xuống nhà như một con vật. Thế rồi suốt từ trưa đến chiều, thâu đêm đến sáng hôm sau, bọn chức dịch lợi dụng việc sự kiện kéo đến ăn cỗ và thi nhau hút thuốc phiện. Còn A Phủ suốt đêm đó phải quỳ giữa nhà chịu đòn. Cứ sau một đợt hút thuốc phiện lại một lần A Phủ bị đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. A Phủ đau lắm nhưng không biết kêu ai. Anh chỉ có một mình, còn bọn chúng thì quá đông. Anh là kẻ có tội, còn bọn chúng dựa vào cả cường quyền, lẫn thần quyền để khuất phục, chế ngự và hành hạ anh. Mọi người biết nhưng không ai nói gì, làm gì. Vì họ cũng tin vào thứ cường quyền và thần quyền ấy.

Cuối cùng A Phủ bị phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ không có tiền nộp nên phải ở làm kẻ lao động trừ nợ cho nhà thống lí. bản án ấy được khẳng định qua lời của tên thống lí: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở lại làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.

Đau đớn hơn đó là khi A Phủ phải đứng lên cầm con dao, ra chọc tiết, làm thịt lợn để làm cỗ hầu chính những kẻ đã biết anh thành nô lệ. Như vậy, sống trong hoàn cảnh mà mọi quyền lực đều nằm trong tay giai cấp thống trị, số phận của những người dân nghèo thật bi thảm. Họ có thể bị đánh đập dã man, bị chết bất cứ lúc nào.

Cuộc đời A Phủ từ đây rơi vào bóng tối cùng cực. A Phủ chính thức trở thành nô lệ, là công cụ lao động trong nhà thống lý Pá Tra. Quanh năm suốt tháng anh chỉ làm việc quần quật chỉ một thân một mình. A Phủ hết đốt rừng, cuốc nương rồi lại săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa. Quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng. Anh chìm ngập trong cả núi công việc, không bao giờ ngơi tay. Cả ngày mưa lẫn ngày nắng người ta thấy lúc nào A Phủ cũng phải làm việc. Lâu dần anh quên cả ý nghĩa của sự tồn tại bản thân, quên hẳn những khát khao của tuổi trẻ.

Tưởng chừng số phận đã an bài số phận A Phủ sẽ là người nô lệ suốt đời suốt kiếp. Rồi anh sẽ chết khi không còn sức lực để làm việc nữa. Thân xác anh sẽ trở về với đất. Cái tên A Phủ sẽ không còn ai nhắc đến. Thế nhưng, một sự việc xảy đến, một lần nữa, cuộc đời A Phủ lại chuyển hướng. Bánh xe số phận lại gập ghềnh.

Lần đó, chỉ do mải mê bẫy dính mà anh để hổ bắt mất bò. Mất một con bò khiến cho thống lý Pá Tra vô cùng giận dữ. Nó trói đứng A Phủ vào cột suốt mấy ngày mấy đêm phải chịu đói, chịu rét cho đến khi A Sử và bọn trai làng giết được con hổ ấy thì chúng mới tha cho anh. Với sức của A Sử và bọn trai làng nghiện hút, A Phủ không tin chúng sẽ bắt được con hổ. A xin đi bắt hổ nhưng chúng không chịu. Chúng lo sợ anh sẽ bỏ trốn. Và thiếu chút nữa A Phủ đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình nếu không được Mị giải thoát.

Thông qua biểu phản ánh số phận đầy đau thương của nhân vật A Phủ, nhà văn tố cáo mạnh mẽ giai cấp thống trị độc ác đồng thời bày tỏ niềm đồng cảm sâu sắc đối với người dân nghèo. Trong con người của A Phủ, người đọc còn cảm nhận được ở anh những phẩm chất tốt đẹp. Đó là sự ý thức của A Phủ về quyền làm người. Ngay từ nhỏ A Phủ đã thể hiện sự dũng cảm của mình. A Phủ không chấp nhận sống dưới cánh đồng thấp nên đã trốn lên núi cao. Còn khi bị bọn A Sử phá đám trong buổi chơi tết, A Phủ để xông ra đánh A Sử mà không hề nghĩ rằng đó là con quan: “A Phủ sốc tới, nắm có vòng cổ (dấu hiệu con nhà quan) kéo dập đầu xuống, xé vai áo,đánh tới tấp”.

Khi bị bắt, bị đánh đập, A Phủ không hề kêu van. Anh không hề van xin mà lì như tượng đá. Ngay cả khi làm mất bò, A Phủ thản nhiên vác nửa con bò còn lại về ném xuống gốc đào trước cửa. Anh không chấp nhận chịu trói mà đòi lấy súng để đi bắn hổ. Anh nói dõng dạc: “cho tôi đi. Được con hổ ấy còn nhiều hơn con bò, cho tôi khỏi tội”. Đó là anh tự tin vào bản thân. Bị thống lý trói đứng vào cột, đến đêm A Phủ tìm cách nhay đứt hai vòng dây. Phải chăng, đó chính là ý thức của sự phản kháng trong con người A Phủ.

Khi được Mị giải thoát, dù chân khụy xuống, không bước đổi nhưng đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết A Phủ đã quật sức vùng lên chạy. Anh còn cứu thoát cả cuộc đời nô lệ của Mị. Sự vùng lên tự giải thoát cho chính mình của A Phủ (và Mị) tiêu biểu cho sự vươn lên của đồng bào dân tộc miền núi. Cho dù đó chỉ là sự tự phát nhưng đó là tiền đề cho sự vươn tới ánh sáng của Đảng ở chặng đời sau này của A Phủ.

Mặc dù không được Tô Hoài dành cho nhiều trang viết nhưng nhân vật A Phủ cũng thể hiện sự thành công của nhà văn trong bút pháp khắc họa nhân vật. Thông qua việc phản ánh số phận của A Phủ, nhà văn còn lên tiếng tố cáo tội ác của giai cấp thống trị phong kiến miền núi đồng thời bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình.

Qua cuộc đời và số phận của nhân vật A Phủ, truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi. Nhà văn trực tiếp phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người. Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ đặt ra vấn đề số phận con người, những con người dưới đáy xã hội, những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Thông qua cuộc đời đầy khổ đau, tủi nhục và sức mạnh vươn lên của nhân vật A Phủ và nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã đã chỉ ra con đường giải thoát cho người dân tộc miền núi. Muốn vượt lên sức mạnh của cường quyền và thần quyền chỉ có một cách là tìm đến ánh sáng của cách mạng, làm cách mạng và tự giải phóng mình ra khỏi ách thống trị, làm chủ cuộc sống của chính mình.

……………..

12 Bài Văn Phân Tích “Những Trò Lố Hay Là Va

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 12

Truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu cùng nhiều tác phẩm khác nữa mà Bác Hồ viết với bút danh Nguyễn Ái Quốc vẫn có giá trị như một áng văn Việt Nam đích thực, góp phần làm sôi động thêm dòng chảy của văn chương dân tộc. Đọc truyện, chúng ta cảm nhận thật rõ ràng hai hình tượng nhân vật đối lập nhau: đó là những nhân chứng lịch sử và những nhân cách con người. Tác giả đã tố cáo Va-ren, một chính khách thực dân xảo quyệt, một kẻ phản bội nhục nhã đồng thời ca ngợi phẩm chất anh hùng của Phan Bội Châu, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập dân tộc. Tìm hiểu hình tượng nhân vật Phan Bội Châu, ta cũng hiểu cả tấm lòng yêu nước và tài năng văn chương của tác giả.

Với kẻ thù – tiêu biểu là toàn quyền Va-ren – ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc mang tính chiến đấu mạnh mẽ bao nhiêu thì với người anh hùng dân tộc Phan Bội Châu, ngòi bút ấy mềm mại, trân trọng bấy nhiêu. Hình tượng Phan Bội Châu được miêu tả rõ nét, luôn song song với nhân vật Va-ren, như một đối chứng của hai màu sắc chọi nhau của một bức vẽ. Điệp ngữ…trong bốn tuần lễ đó Phan Bội Châu bị giam trong tù… Trong khi đó thì Phan Bội Châu vẫn nằm tù nhấn đi nhấn lại cái hoàn cảnh khổ cực của cụ Phan, cũng đồng thời bày tỏ một tình cảm xót thương. Thương xót và trân trọng, ngợi ca, âm điệu trữ tình ấy thấm đẫm trong từng câu chữ. Đối chiếu hai sự việc, hai con người để tố cáo tâm địa xảo quyệt của Va-ren. Hắn cố kéo dài thời gian giam hãm cụ Phan Bội Châu như để uy hiếp tinh thần cụ, buộc cụ từ bỏ ý chí đấu tranh.

Hắn hứa chăm sóc cụ Phan Bội Châu đó là lời hứa nửa chính thức do sức ép của công luận ở Pháp và Đông Dương mà thôi. Thực chất nham hiểm, xảo quyệt của hắn đã bộc lộ sâu sắc và rõ nét khi chạm trán với Phan Bội Châu. Trong suốt buổi gặp, để mặc cho Va-ren diễn thuyết với bao nhiêu lời hoa mĩ, ngọt ngào, cụ Phan chỉ im lặng, dửng dưng. Tai cụ không nghe, nét mặt cụ bình thản, cụ ngồi… im như một pho tượng… làm cho Va-ren sửng sốt cả người. Đấy chính là tư thế hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ thể hiện cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù, phủ nhận, bác bỏ mọi âm mưu ma chước quỷ xảo trá của bọn ngoại xâm, Kil ngọn râu mép của Phan Bội Châu nhếch lên một chút – theo lời anh lính dõng kể – nhất là lúc cụ nhổ vào mặt Va-ren, như lời một nhân chứng thứ hai quả quyết, thì cuộc chiến trở nên quyết liệt. Người anh hùng ấy đã chiến thắng.

Bởi vì, đối với Phan Bội Châu, tất cả lời lẽ và thái độ của Va-ren chỉ là một trò… lố bịch, một trò hề! Có thể nói, trong truyện ngắn này, hình tượng Phan Bội Châu được khắc hoạ bằng một ngòi chấm phá kiểu Á Đông. Chỉ vài nét vừa tả, vừa gợi, nhân vật đã nỗi lên, rõ rệt một chân dung, một thần thái có đủ phẩm chất, tính cách. Phan Bội Châu, đó là người chiến sĩ hiên ngang, bất khuất trước mọi mưu mô nham hiểm, thâm độc của kẻ thù. Phan Bội Châu, đó là bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vô cùng đáng kính.

Viết về nhân vật Phan Bội Châu, tác giả đã dành những từ ngữ đẹp nhất: khi gọi cụ là người đồng bào tôn kính của chúng ta, con người đã hi sinh cả gia đình và của cải…, lúc nâng lên tầm cao của bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân. Đó là cách định danh của thần thánh. Miêu tả thái độ và cử chỉ Phan Bội Châu trước những lời lố bịch của Va- ren, tác giả đã đập thẳng vào mặt kẻ thù của cụ Phan cũng là kẻ thù của cả dân tộc, những đòn chí mạng. Đó là lưỡi gươm sắc bén mà người thanh niên yêu nước đã vung lên trong buổi đầu chiến đấu chống thực dân vì độc lập tự do của dân tộc.

Cử chỉ hành động của nhân vật Phan Bội Châu được miêu tả không nhiều, nhưng ta vẫn thấy nổi bật lên hai hình tượng nhân vật đối chọi nhau như bóng tối và ánh sáng: một kẻ tiểu nhân, phản bội và một người anh hùng trung thành với lí tưởng, hiên ngang, bất khuất. Đó là những nhân chứng lịch sử, những nhân cách con người mãi mãi không phai mờ. Đằng sau hai hình tượng ấy là tấm lòng của Nguyễn Ái Quốc; vừa căm thù thực dân xâm lược vừa yêu nước thiết tha. Tấm lòng ấy được thể hiện qua ngòi bút chiến đấu sắc sảo độc đáo: miêu tả sinh động, dùng từ linh hoạt, tự nhiên, trào phúng, nhất là nghệ thuật khắc hoạ nhân vật, tạo tình huống bất ngờ…

Truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu có nguyên văn bằng tiếng Pháp, được viết cách đây trên nửa thế kỉ. Những nhân vật, những sự việc đã đi vào quá khứ. Song vừa đọc, vừa nghiền ngẫm, ta thấy Phan Bội Châu, rất xứng đáng được dân tộc Việt Nam tôn kính. Đặc biệt, ngòi bút châm biếm độc đáo của tác giả Nguyễn Ái Quốc, ngay từ những ngày đầu cầm bút, đã xứng đáng một nhà văn – chiến sĩ yêu nước.

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 11

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 12

Trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết rất nhiều tác phẩm có tính chiến đấu mạnh mẽ, cổ vũ, động viên phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trong nước. Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu là một trong những tác phẩm như vậy. Tác phẩm đã vạch trần bộ mặt gian trá, lố bịch, đê hèn của Va-ren, hắn chính là đại diện tiêu biểu cho lũ thực dân cướp nước. Nhưng nổi bật hơn, đẹp đẽ hơn chính là Phan Bội Châu một thiên sứ, một vị anh hùng dám xả thân vì độc lập dân tộc, kiên cường, bất khuất, tiêu biểu cho khí phách của dân tộc Việt Nam.

Phan Bội Châu là lãnh tụ cách mạng theo con đường dân chủ nổi bật những năm đầu thế kỉ XX. Trong quá trình hoạt động cách mạng ông đã bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt (1913). Năm 1925 ông bị bắt cóc ở Trung Quốc, bị giải về giam ở Hỏa Lò, chờ ngày xử án. Trước sức ép của dư luận, bọn chúng đã phải thả cụ ra và giam lỏng cụ ở Huế cho đến ngày cụ qua đời. Trong khi đó, Va-ren chuẩn bị sang Đông Dương nhận chức toàn quyền và hắn hứa sẽ quan tâm, chăm sóc cụ Phan Bội Châu. Trước hoàn cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc đã viết tác phẩm nhằm mục đích cổ động phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước đòi thả Phan Bội Châu và vạch trần bản chất bịp bợm của toàn quyền Va-ren.

Nếu như với Va-ren tác giả sử dụng những ngôn từ mang tính mỉa mai, châm biếm như: phản bội giai cấp, kẻ phản bội nhục nhã thì với Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc sử dụng những từ ngữ hết sức đẹp đẽ, trân trọng: người đồng bào tôn kính, bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân, … những từ ngữ đó là hoàn toàn chính xác để nói về Phan Bội Châu, người sẵn sàng xả thân, hi sinh vì độc lập tự do của dân tộc.

Để làm nổi bật chân dung người anh hùng Phan Bội Châu tác giả luôn miêu tả nhân vật trong tư thế song song với tên Va-ren. Phẩm chất của cụ được bộc lộ rõ nhất trong cuộc chạm trán với Va-ren, được tác giả đánh giá là “một tấn kịch”, “một cuộc chạm trán” giữa “một kẻ phản bội nhục nhã” với “một vị thiên sứ”. Trong cuộc đụng độ đó chỉ có Va-ren nói, còn Phan Bội Châu thì hoàn toàn im lặng. Sự im lặng đó mang rất nhiều ý nghĩa khác nhau. Trước hết thể hiện thái độ dửng dưng, khinh thường của Phan Bội Châu với Va-ren. Những lời hù dọa hoặc nịnh nọt của Va-ren chẳng thể lọt vào tai cụ Phan, không phải vì cụ không hiểu, mà bởi những lời của kẻ phản bội giai cấp chỉ làm cụ cảm thấy đáng khinh thường.

Những lời của Va-ren bởi vậy mà chẳng khác gì “nước đổ lá khoai”. Không chỉ vậy sự im lặng của cụ Phan còn thể hiện thái độ khinh bỉ: “đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên một chút rồi lại hạ xuống ngay, mỉm cười một cách kín đáo, vô hình và im lặng, như cánh ruồi lướt qua vậy”. Thái độ khinh bỉ được đẩy lên một cấp độ cao hơn nữa khi ở những dòng T.B tác giả đã cho thấy phản ứng quyết liệt của cụ Phan khi nhổ vào mặt Va-ren, đến đây, sự khinh bỉ đã được đẩy lên đến tột cùng. Thái độ, cách ứng xử của cụ Phan Bội Châu cho thấy phẩm chất cao đẹp trong con người cụ: suốt một đời hi sinh, cống hiến cho dân tộc, cho đất nước, dù có những lời dụ dỗ, có những lời đe dọa nhưng tất cả chúng không thể lay chuyển ý chí sắt đá của ông với sự nghiệp cứu nước.

Đây là cốt cách của bậc đại trượng phu “Uy vũ bất năng khuất, phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di”. Sự im lặng của Phan Bội Châu cũng chính là điều kiện để Va-ren bộc lộ rõ hơn nữa bản chất của mình. Chỉ mình hắn thao thao giảng giải, khuyên răn, lấy hết tấm gương này đến tấm gương khác để cho Phan Bội Châu bị thuyết phục. Hắn càng nói, lại càng lộ rõ bản chất của một kẻ bịp bợm, phản trắc, một tên thực dân cáo già.

Dù không được miêu tả nhiều trong tác phẩm nhưng với một vài nét phác họa, cùng nghệ thuật đối lập, Nguyễn Ái Quốc đã cho thấy rõ chân dung của Phan Bội Châu. Ông là người kiên cường, bất khuất, xứng đáng là vị thiên xứ, người anh hùng, tiêu biểu cho khí phách dân tộc Việt Nam.

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 11

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 10

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 11

Khi còn ở bên Pháp, Bác của chúng ta viết nhiều truyện ngắn. Trong đó có chuyện “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu”. Nội dung tư tưởng của câu chuyện chủ yếu được thể hiện qua câu trò chuyện giữa tên Toàn quyền Đông Dương và nhà cách mạng. Và đặc biệt trong cuộc trò chuyện đầy miễn cưỡng này, sự im lặng của Phan Bội Châu đã làm cho nội dung tác phẩm mang ý nghĩa sâu sắc nhiều hơn.

Va-ren là người Pháp, hắn được Chính phủ cử sang làm Toàn quyền ở xứ Đông Dương. Để lấy lòng quần chúng và để yên vị với chức vụ mới của mình, Va-ren hứa sẽ đem lại tự do cho nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu. Câu chuyện của Nguyễn Ái Quốc xoay quanh nội dung như thế. Và tất nhiên, nó chỉ là một câu chuyện bịa. Nhà văn tưởng tượng ra câu chuyện để lật tẩy bộ mặt của Va-ren và cũng là để ca ngợi nhân cách của một con người – nhà yêu nước họ Phan. Cao trào của câu chuyện bắt đầu khi nhà văn để cho hai nhân vật chính diện với nhau. Tên toàn quyền thì cứ khua môi múa mép, hết sức “tỏ bày” mong thuyết phục được nhà cách mạng của chúng ta. Ngược lại Phan Bội Châu cứng rắn, lặng thinh và nếu có thể coi đó là một hành động phản ứng lại thì cũng chỉ là một nhếch ria mép mà thôi.

Sự im lặng của Phan Bội Châu là một sự im lặng đầy ý nghĩa. Bởi trước hết, biết nói gì đây khi cuộc trạm chán lại là giữa hai con người hoàn toàn đối ngược nhau về bản chất. Một con người đã phản bội lại giai cấp vô sản Pháp, tên chính khách đã bị đồng bọn đuổi ta khỏi tập đoàn, kẻ đã ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ lòng tin, ruồng bỏ giai cấp mình. Còn ở phía bên kia là “con người đã hy sinh cả gia đình và của cải để xa lánh khỏi thấy mặt bọn cưóp nước mình, sống xa lìa quê hương, luôn bị lũ này săn đuổi..”. Trong hoàn cảnh ấy, giả sử Phan Bội Châu có cất lên lời thì e sẽ có một cuộc cãi vã lớn xảy ra, và có khi còn kèm theo những lời nhại báng và văng tục. Trong hoàn cảnh ấy có lẽ im lặng là cách tốt nhất để không bị nhơ bẩn cái nhân cách của chính mình.

Cũng còn lý do khác khiến nhà chí sĩ yêu nước của chúng ta im lặng. Chúng ta hãy nghe lại những lời hùng biện của Va-ren: cũng thấy hắn nhắc đến tự do nhưng đó lại là một cuộc tự do “đổi chác”, Phan Bội Châu muốn được tự do ư? Điều ấy không khó. Thế nhưng muốn được như vậy “ông lấy danh dự hứa với tôi là sẽ trung thành với nước Pháp, hãy cộng tác, hãy hợp lực với nước Pháp để tiến hành ở Đông Dương một sự nghiệp khai hóa và công lý”. Ôi! một người có thể hy sinh cả cuộc đời để mong những điều tốt đẹp cho xứ sở Đông Dương mà lại bắt tay với ke thù xâm lược hay sao? Điều ấy rõ ràng là không thể.

Như vậy sự im lặng của Phan Bội Châu thực sự đã và đang là câu trả lời kiên quyết nhất. Nó phủ định tất cả những lời ngoa ngôn xảo quyệt của Va-ren. Nó là lời đáp trả thông minh vươn hơn hẳn về nhân cách của một con người ngang tàng đầy khí phách. Cách ứng xử ấy cũng cho ta thấy lòng yêu nước thủy chung son sắt của một con người trọn đời gắn bó với đất nước, quê hương.

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 9

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 10

“Những trò lố hay Va ren và Phan Bội Châu” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Ái Quốc được sáng tác vào năm 1925. Nghệ thuật biếm họa được sử dụng vô cùng khéo léo đã biến tác phẩm thành một cảnh hài kịch và chúng ta sẽ thấy được rất rõ điều này qua từng câu, từng chữ của tác phẩm.

Tác phẩm được sáng tác sau khi nhà cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt và xử tù chung thân nhưng trước ý chí đấu tranh đòi thả cụ Phan của nhân dân Việt Nam, chúng buộc phải ra lệnh ân xá rồi giam lỏng cụ ở Bến Ngự cho đến năm 1940, khi cụ qua đời.

Còn Va – ren là người thay cho Méc – lanh sau khi Méc – lanh bị Phạm Hồng Thái ám sát hụt và buộc phải về nước. Va – ren vốn là đảng viên của Đảng Xã hội Pháp nhưng đã phản bội Đảng và được cử làm Toàn quyền Đông Dương. Va – ren đã tuyên bố hắn sẽ quan tâm tới cụ Phan trước khi sang Đông Dương nhận chức. Tác phẩm đã được Nguyễn Ái Quốc viết lên ngay sau đó để phơi bày bản chất xấu xa cũng như bộ mặt lố bịch của tên Toàn quyền Đông Dương này. Thực chất “Những trò lố hay Va – ren và Phan Bội Châu” là một tác phẩm hư cấu mặc dù xét theo hình thức thì nó chẳng khác nào một bài ký sự. Tác phẩm được gây dựng lên bởi những sự kiện, nhân vật hoàn toàn có thật.

Va – ren Toàn quyền Đông Dương mới, Phan Bội Châu – chí sĩ cách mạng đang bị giam giữ và phong trào đấu tranh của nhân dân đòi thả cụ Phan là những yếu tố có thật. Nhưng rõ ràng truyện được viết trước khi Va – ren sang Đông Dương nhận chức và cũng chẳng có cuộc gặp nào giữa hai nhân vật này khi hắn ta sang Đông Dương. Nội dung cuộc gặp hoàn toàn là do tác giả tưởng tượng ra nhằm thể hiện thái độ căm phẫn, khinh thường bè lũ xâm lược; đồng thời cũng thể hiện lòng yêu nước của tác giả. Ngay ở nhan đề tác phẩm, Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp vạch trần thái độ giả dối và bản chất xấu xa của tên Toàn quyền mới khi đặt cụm từ “Những trò lố” vào nhan đề.

Vốn dĩ đây là cuộc gặp gỡ hoàn toàn đối lập giữa một bên là tên thống trị bất lương Va – ren còn một bên là người chiến sĩ cách mạng vĩ đại Phan Bội Châu. Có lẽ vì thế mà ngôn ngữ được sử dụng để miêu ta hai nhân vật cũng hoàn toàn khác nhau. Nếu tên Va – ren được khắc họa bằng kiểu ngôn ngữ trần thuật thì cụ Phan được khắc họa bằng sự im lặng. Đây chính là yếu tố quan trọng góp phần thể hiện sự tinh tế, sắc sảo của nhà văn trong việc gợi ra nhiều suy nghĩ trong tâm trí độc giả.

Sau đó là lời nhận xét của tác về cuộc diện kiến của hai nhân vật có tính cách hoàn toàn đối lập này: “Ôi thật là một tấn bi kịch! Ôi thật là một cuộc chạm trán! Con người đã phản bội giai cấp vô sản Pháp, tên chính khách đã bị đồng bọn đuổi ra khỏi tập đoàn, kẻ đã ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ lòng tin, ruồng bỏ giai cấp mình, lúc này mặt đối mặt với người kia, còn người đã hy sinh cả gia đình và của cải để xa lánh khỏi thấy mặt bọn cướp nước mình, sống xa lìa quê hương, luôn luôn bị lũ này xua đuổi, bị chúng nhử vào muôn nghìn cạm bẫy, bị chúng kết án tử hình vắng mặt và giờ đây đang bị, vẫn chúng, đeo gông lên vai đày đọa trong nhà giam, ngày đêm bị bóng dáng của máy chém như một bóng ma ám kề bên cổ”.

Hàng loạt mâu thuẫn trong lời nói và hành động của hắn đã thể hiện rõ bản chất đê tiện của tên Toàn quyền mới này. Có thể nói, chính lời nói và hành động của hắn đã tự phô bày mặt nạ giả tạo cũng như bản chất xảo quyệt của hắn. Nguyễn Ái Quốc đã vô cùng thành công trong việc xây dựng tính cách của cả hai nhân vật. Xuyên suốt “Những trò lố hay Va – ren và Phan Bội Châu”, tác giả chủ yếu sử dụng nghệ thuật so sánh, đối chiếu để thể hiện sự tương phản trong tính cách của cả hai nhân vật. Thành công thứ hai đáng kể đến của tác phẩm là cách tác giả hư cấu nội dung dựa trên những nhân vật, sự kiện có thật nhằm thể hiện thái độ mỉa mai, giễu cợt.

Bằng giọng văn sắc sảo cùng sự tưởng tượng phong phú, Nguyễn Ái Quốc đã phơi bày được bộ mặt xảo trá của tên Toàn quyền mới, từ đó gián tiếp thể hiện tinh thần yêu nước của mình. Đặt tác phẩm vào hoàn cảnh ra đời lúc bấy giờ, có thể coi tác phẩm như một “lời cổ động”, tiếp thêm ý chí chiến đấu cho nhân dân cả nước.

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 8

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 9

Những trò lố của Va-ren và Phan Bội Châu là truyện ngắn đặc sắc và độc đáo của Nguyễn Ái Quốc, sáng tác năm 1925 sau sự kiện nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc từ Tring Quốc áp giải về Việt Nam và xử tù chung thân. Trước phong trào đấu tranh sôi sục của nhân dân cả nước đòi trả cụ Phan, chúng ta phải ra lệnh ân xá rồi đem cụ về giam lỏng ở Bến Ngự, kinh đô Huế, cho đến ngày cụ qua đời (1940). Va-ren vốn là đảng viên Đảng viên Đảng Xã hội Pháp. Sau khi phản bội ảng, hắn được cử làm toàn quyền Đông Dương, thay cho Méc-lanh bị chiến sĩ cách mạng Phạm Hồng Thái ám sát hụt phải ề nước. Trước ngày chuẩn bị sang Đông Dương nhậm chức, Va-ren tuyên bố sẽ quan tâm tới cụ Phan Bội Châu. Ngay lập tức, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu để phơi bày bộ mặt lố bịch cùng chất xấu xa của hắn.

Hình thức tác phẩm giống như một bài kí sự nhưng thực ra nó là một truyện ngắn hư cấu (nghĩa là tưởng tượng trên cơ sở những yếu tố có thật). Nhân vật có thật là Va-ren – toàn quyền Pháp mới tại ĐÔng Dương; Phan Bội Châu – nhà chí sĩ yêu nước đang bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam tại Hà Nội. Sự kiện có thật là phong trào đấu tranh sôi sục của nhân dân đòi thả cụ Phan Bội Châu đang dâng cao khắp ba miền.

Những tình tiết hư cấu là truyện được viết trước khi Va-ren sang nhậm chức Toàn quyền Va-ren với Phan Bội Châu ở nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội. Nội dung cuộc gặp gỡ giữa Va-ren với Phan Bội Châu cũng là do tác giả tưởng tượng ra. Thông qua hai nhân vật Va-ren và Phan Bội Châu, chúng ta hiểu rõ thái độ căm thù, khinh bỉ quân xâm lược và lòng yêu nước thiết tha của Nguyễn Ái Quốc.

Đặt cụm từ Những trò lố trong nhan đề tác phẩm, tác giả có chú ý vạch trần hành động động giả dối, lố bịch vad bản chất xấu xa của tên cáo già Va-ren. Truyện được kể theo trình tự thời gian : Từ Pa-ri, Va-ren xuống tàu sang Việt Nam rồi tới khám giam cụ Phan Bội Châu tại Hỏa Lò. Cuyến đi chia thành bốn chặng. Chặng 1 : Bốn tuần lễ đầu, Va-ren ở trên tàu trong hành trình từ Mác-xây đến Sài Gòn. Chặng 2 : Va-ren đến Sài Gòn, được chính quyền sở tại tiếp đón “nhiệt tình”. Chặng 3 : Va-ren tới Huế được triều đình nghênh tiếp, được dự yến và gắn mễ đay. Chặng 4 : Va-ren ra Hà Nội, tiến hành cuộc hội kiến với Phan Bội Châu ở trong tù và những trò lố của hắn đã diễn ra. Phần trích trong sách giáo khoa là chặng 1 và chặng 4.

Qua cách kể chuyện và miêu tả cuẩ tác giả, người đọc có thể hình dung ra chuyến đi dềnh dàng kéo dài và những trò lố (những trò lố nhăng, bịp bợm, đáng cười) của tên Toàn quyền Va-ren.Trong đoạn văn có hai nhân vật chính là Va-ren và Phan Bội Châu. Hai nhân vật này được xây dựng bằng nghệ thuật tương phản. Va-ren (kẻ thống trị) bất lương đối lập với cụ Phan Bội Châu là một tù nhân (người bị trị) nhưng lại cao cả và vĩ đại.

Ngôn ngữ sử dụng trong việc khắc họa tính cách của từng nhân vật cũng khác nhau. Tác giả dùng ngôn ngữ trần thuật để khắc họa tính cách của Va-ren. Còn với Phan Bội Châu, tác giả dùng phương pháp đối lập là sự im lặng. Đây lầ bút pháp tinh tế, sắc sảo có khả năng gợi tả, gợi cảm lớn. Va-ren nhậm chức toàn quyền, đứng đầu bộ máy cai trị của thực dân Pháp tại Đông Dương (gồm ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia). Trò lố đầu tiên của hắn là hứa chăm sóc cụ Phan Bội Châu. Tác giả ngầm khẳng định : Va-ren vừa nhậm chức nên hắn muốn trấn an dư luận. Vì thế nên lời hứa của hắn chỉ là lời hứa suông để mị dân, làm dịu không khí đấu tranh chống Pháp đang sôi nổi khắp mọi nơi. Điều đó cho thấy Va-ren là một kẻ nham hiểm, xảo quyệt, lời hứa đó chỉ đê đối phó trước sức ép của công luận ở Pháp và Đông Dương. Nói khác đi, đó là lời hứa gượng ép, miễn cưỡng.

Ở đoạn mở đầu truyện, tác giả thông báo về việc ang Việt Nam cùng lời hứa của viên Toàn quyền. Cách diễn đạt ngụ ý châm biếm gieo mối ngờ vực trong lòng mọi người vè việc Va-ren thực hiện lời hứa ấy. Có thể nói tác giả không tin một chút nào vào “thiện chí” của hắn. Sau đó là cuộc hội kiến giữa Va-ren và Phan Bội Châu trong nhà tù. Cảnh này được kể và tả bằng ngòi bút linh hoạt và sắc sảo. Trước tiên, tác giả nhận xét khái quát về cuộc diện kiến và tính cách hai nhân vật:

Ôi thật là một tấn bi kịch! Ôi thật là một cuộc trạm trán ! Con người đã phản bộ giai cấp vô sản Pháp, tên chính khách đã bị đồng bọn đuổi ra khỏi tập đoàn, kẻ đã ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ lòng tin, ruồng bỏ giai cấp mình, lúc này mặt đối mặt với người kia, con người đã hi sinh cả gia đình và của cải để xa lánh khỏi thấy mặt bọn cướp nước mình, sống xa lìa quê hương, luôn luôn bị lũ này sua đuổi, bị chúng nhử vào muôn nghìn cạm bẫy, bị chúng kết án tử hình vắng mặt và giờ đây đang bị, vẫn chúng, đeo gông lên vai đày đọa trong nhà giam, ngày đêm bị bóng dáng của máy chém như một bóng ma ám kề bên cổ.

Những mâu thuẫn trong lời nói và hành động đã tố cáo bản chất của Va-ren là kẻ thực dụng đến mức đê tiện, sắn sàng làm mọi việc, dù là tồi tẹ nhất chỉ vì quyền lợi cá nhân. Bên cạnh đó, nó cũng bóc trần sự thật lời hứa chăm sóc cụ Phan Bội Châu của Va-ren là như thế nào. Không phải hắn trả tự do cho cụ Phan mà là cố tình ép vuộc cụ từ bỏ lí tưởng cách mạng cao đẹp, từ bỏ dân tộc mình. Hắn đến gặp cụ Phan vì quyền lợi của nước Pháp thực dân, mà trực tiếp là vì danh lợi của hắn. Thật nực cười khi kẻ phản bội lí tưởng đê tiện nhất lại đi khuyên bảo kẻ trung thành với lí tưởng cao cả nhất. Rõ ràng, lời hứa chăm sóc Phan Bội Châu của Va-ren không chỉ là lời hứa suông mà còn là trò bịp bợm nhố nhăng.

Hắn vờ tỏ ý kính trọng tâm hồn cao thượng và cuộc đời đây hi sinh của cụ Phan Bội Châu nhưng lại đòi hỏi cụ phải phản bội, đầu hàng. Hắn mang miếng bánh vẽ đẹp đẽ hào nhoáng về tương lai của xứ Đông Dương thuộc địa để dụ dỗ mua chuộc cụ: Ông Phan Bội Châu, tôi biết rõ tâm hồn cao thượng và cuộc đời đầy hi sinh, nhiều nguy nan của ông, và chính tôi, tôi xin là người đầu tiên, với tư cách là toàn quyền Đông Dương, được bày tỏ tấm lòng rất mực quý trọng ông. Song những ý tưởng hào hiệp nhất phải chăng bao giờ cũng hay nhất ?… Chúng ta có thể cùng nhau, làm cho nước ông trở thnahf một quốc gia tân tiến lớn, một xứ tự trị, một nước Pháp ở châu Âu.!

Va-ren đã tự lột mặt nạ, tự bóc trần bản chất của hắn – một tên chính khách thực dân xảo quyệt, một kẻ phản bội nhục nhã, một con người vô liêm sỉ đáng khinh. Sự dối trá, lừa bịp giấu trong giọng lưỡi ngọt nhạt, phỉnh phờ. Hắn dùng những lời lẽ ấy để chiêu dụ Phan Bội Châu, nhà ái quốc suốt đời sả thân vì chủ quyền độc lập của đất nước. Trắng tráo hơn nữa là hắn đòi cụ Phan dùng uy tín lớn của mình để lôi kéo mọi người theo Pháp : chớ tìm cách xúi giục đồng bào nổi lên, hãy bảo họ hợp tác với người Pháp Va-ren khuyên Phan Bội Châu từ bỏ lí tưởng : để mặc đấy những ý nghĩ phục thù và bắt tay với hắn: ông với tôi, tay nắm chặt tay, chúng ta có thể làm được biết bao công việc tốt đẹp cho xứ Đông Dương này.

Vốn tính quái, hắn biết “tấm gương” của hắn chưa đủ thuyết phục cụ Phan Bội Châu nên hắn còn ca ngợi các bạn học của hắn – những kẻ cũng phản bội như hắn – và coi đó là những “tấm gương” đáng noi theo : Những vị ấy, ngày nay lừng danh cả, đều đã lần lượt đốt cháy những cái mà mình đã tôn thờ và đang tôn thờ những cái mà mình đang đốt cháy. Cách chơi chữ thâm thúy của tác giả thể hiện thái độ khinh bỉ, mỉa mai sâu cay đối với những kẻ phản bội lí tưởng cách mạng, quay sang tôn thờ những điều xấu xa gắn liền với đàn áp, khủng bố, giết chóc, tàn hại những người cùng giai cấp và xâm chiếm đất nước của người khác Va-ren đã thể hiện rõ bản chất phản bội đê hèn của hắn.

Trơ trẽn hơn nữa, hắn đã tự nhận mình là một kẻ phản bội lại lí tuowgnr cách mạng của Đảng Xã hội Pháp đang đấu tranh cho công bằng, dân chủ và quyền tự do của con người. Hắn chấp nhận trở thành một quan chức thực dân cao câp, đại diện cho thực dân Pháp sang thống trị nhân dân ta. Hắn tráng tráo vỗ ngực khoe với cụ Phan Bội Châu;… ông hãy nhìn tôi đây này, ông Phan Bội Châu! Trước tôi là đảng viên Xã hội đấy, và giờ đây thì tôi làm Toàn quyền… !

Thái độ của Phan Bội Châu trước Va-ren như thế nào ? Cụ im lặng, phớt lờ, coi như không có hắn trước mặt. Đó là cách bộc lộ thái độ khinh bỉ kẻ thù cao độ. Về sự im lặng, dững dưng của Phan Bội Châu, tác giả có lời bình hóm hỉnh: Ừ thì Phan Bội Châu nhìn Va-ren. Nhưng, lạ chưa ! Những lời nói của Va-ren hình như lột vào tai Phan Bội Châu chẳng khác gì “nước đổ lá khoai”, và cái im lặng dững dưng của Phan Bội Châu suốt buổi gặp gỡ hình như làm cho Va-ren sửng sốt cả người.

Giả sử truyện chấm dứt ở câu: Nhưng cứ xét bình tĩnh, thì đó chỉ là vì Phan Bội Châu không hiểu Va-ren cũng cũng như Va-ren không hiểu Phan Bội Châu thì ý nghĩa của nó vân hoàn cỉnh bởi vì hai con người thuộc hai chí tuyến khác nhau, tôn thờ những lí tưởng khác nhau thì làm sao hiểu được ý nghĩ của nhau và không thể có tiếng nói chung. Nhưng tác giả đã nối thêm đoạn kết, trong đó có lời nói quả quyết của anh lính dõng An Nam và lời suy đoán của tác giả cùng các chi tiết : Sự thay đổi nhẹ trên nét mặt người tù lừng tiếng… đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên một chút rồi lại hạ xuống ngay, và cái đó chỉ diễn ra có một lần thôi… Phan Bội Châu có mỉm cười… như cánh ruồi lướt qua vậy. Những chi tiết đó khắc họa nổi bật thái độ ngạo nghễ cùng tính cách hiên ngang, bất khuất của Phan Bội Châu trước kẻ thù.

Nêu trong đoạn kết ở trên, sự khinh bỉ của Phan Bội Châu được thể hiện bằng thái độ im lặng, dững dung và nụ cười nhêch mép khinh bỉ thì ở phần tái bút, sự khinh bỉ ấy lại bộc lộ qua hành động quyết liệt. Như thế là với kẻ thù không đội trời chung, cụ Phan có nhiều cách tỏ thái độ, im lặng, dửng dưng chưa đủ mà cụ còn nhổ vào mặt Va-ren. Cách dẫn chuyện úp úp mở mở của tác giả thật hóm hỉnh và thú vị. Nó làm tăng thêm ý nghĩa đả kích thực dân Pháp mà tác giả đặt ra trong tác phẩm.

Truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu thành công trước tiên là trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật. Tác giả chủ yếu dùng nghệ thuật so sánh, đối chiều để tạo ra sự tương phản cực độ giữa Va-ren và Phan Bội Châu. Điều đó thể hiện rõ nhất ở cuộc đối đầu giữa quan toàn quyền Đông Dương và Phan Bội Châu – một người tù “đặc biệt” của chính quyền thực dân Pháp. Va-ren càng hùng hồn tới mức tro trẽn để quan cao điểm sống của những kẻ phản bội lí tưởng, ruồng bỏ giai cấp mình bao nhiêu thì Phan Bội Châu càng tỏ ra lạnh lùng, dửng dưng bấy nhiêu. Qua đó tác giả làm nổi bật thái độ bịm bợm, dối trá, bản chất bỉ ổi, đê tiện của kẻ cướp nước và ca ngợi bản lĩnh vững vàng, bất khuất của nhà chí sĩ yêu nước. Đây cũng là sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng, giữa “lí tượng” của một kẻ cướp nước và lí tưởng của một người anh hùng yêu nước.

Thành công thứ hai của tác phẩm là cách dẫn chuyện của tác giả. Nội dung câu chuyện do tác giả tưởng tượng ra trên cơ sở các sự kiện và nhân vật có thật nhưng tất cả đã hiện lên thật cụ thể, sống động. Đối với nhân vật Va-ren, tác giả vừa kể vừa xen vào những lời bình ẩn chứa thái độ mỉa mai, giễu cợt và khinh bỉ. Giọng kể của tác giả thoạt nghe có vẻ khách quan (kể lại sự việc như nó đang diễn ra), nhưng thực chất lại chứa đầy chú ý đả kích. Chủ ý ấy thể hiện rõ qua cách lựa chọn chi tiết, hình ảnh, cách bình phẩm… Riêng đối với cụ Phan Bội Châu, lời kể, lời bình của Nguyễn Ái Quốc thật đa dạng, lúc thì mềm mại, trữ tình, lúc thì mạnh mẽ, cứng cỏi, đầy khí phách, xứng với tầm vóc vĩ đại của nhà chí sĩ yêu nước – niềm tự hào kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 8

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 7

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 8

Trong văn học, có những trường hợp rất đặc biệt, sự ra đời và hình thành của tác phẩm vượt ra ngoài sự kiểm soát của bản thân nhà văn để cho hiện hữu những tác phẩm độc đáo, đặc sắc.

Truyện ngắn “Những trò lố hay la Va-ren và Phan Bội Châu” của Nguyễn Ái Quốc cũng nằm trong số đó. Nhận xét về tác phẩm này, có ý kiến cho rằng: “Tác giả không định dựng cuộc gặp gỡ này thành một cảnh hài kịch. Nhưng nghệ thuật biếm họa đã được áp dụng rộng rãi theo yêu cầu của cái nhìn sân khấu”. Và một trong những yếu tố làm nên đặc sắc cho truyện ngắn này chính là nghệ thuật biếm họa độc đáo.

Nhân vật chính của tác phẩm này là hai nhân vật rất nổi tiếng mà tiêu đề văn bản đã nêu đích danh: Va-ren và Phan Bội Châu. Họ là ai? Phan Bội Châu là người rất có tài văn chương, đồng thời là nhà chí sĩ yêu nước nổi tiếng. Ông từng phát động phong trào Đông Du kêu gọi thanh niên tiến bộ phát huy tinh thần yêu nước, ra nước ngoài học hỏi để trở về canh tân, đổi mới đất nước. Nhưng phong trào Đông Du thất bại rồi sau đó từ năm 10l3 đến năm 1916, ông bị chính quyền Quảng Châu bắt giam. Sau khi được tha, ông lại bị thực dân Pháp bắt cóc đưa về nước. Trước sức ép của công luận Việt Nam và quốc tế, thực dân Pháp ban đầu định thủ tiêu ông nhưng sau đành đưa ra xét xử công khai và kết án tù chung thân.

Va ren là Toàn quyền Đông Dương, khi sang Việt Nam đã ra lệnh ân xá Phan Bội Châu (thực chất là để lấy lòng dân chúng), sau khi mua chuộc, dụ dỗ ông không được, chúng lại đưa ông về giam lỏng ở Bến Ngự – Huế. Nguyễn Ái Quốc viết truyện ngắn Những trò lố hay là Va ren và Phan Bội Châu để vạch trần âm mưu thâm độc của thực dân Pháp và nhằm cổ vũ khích lệ tinh thần yêu nước, khẳng định vị thế cao cả của người anh hùng ái quốc Phan Bội Châu.

Tác phẩm ra đời khi khi Va-ren còn chưa sang Việt Nam, bởi thế, cuộc gặp gỡ giữa Toàn quyền Đông Dương và người chí sĩ cách mạng được miêu tả trong truyện chỉ là chi tiết hư cấu. Và cũng bởi thế, việc xây dựng chân dung Va-ren – một gã phản bội méo mó, ti tiện – là hoàn toàn đưa vào nghệ thuật biếm họa. Với ngòi bút châm biếm sắc sảo, trí tưởng tượng dồi dào, tác giá đã tái hiện cuộc gặp gỡ của Va-ren một kẻ phản bội nhục nhã với một vị anh hùng kiệt xuất, tất cả đều được hiện lên chân thực và sinh động.

Nổi bật trong tác phẩm là chân dung nhân vật Va-ren. Nguyễn Ái Quốc có cách xây dựng nhân vật khá độc đáo Mặc dù không xuất hiện trực tiếp với dung mạo, cử chỉ và hành động cụ thể, Va-ren xuất hiện gián tiếp qua “cuộc công cán” với lời hứa nửa chính thức. Dọc theo cuộc hành trình cao cả ấy, chân dung của y dần được lộ rõ. Tác giả đã tưởng tượng ra cảnh Va- ren được đón tiếp tại Sài Gòn. Thái độ của chính quyền bản xứ đối với Va- ren được miêu tả bằng những từ như quấn quýt lấy, lôi kéo đi, ru vỗ, ấp ủ trong mớ bòng bong của những buổi chiêu đãi, những cuộc tiếp rước, những lời chúc tụng. Dân chúng bị lừa đi đón rước dưới ngọn roi gân bò và tiếng quát tháo của viên đội xếp Tây. Họ đi xem quan Toàn quyền như đi xem hát tuồng và bình phẩm về mũ, áo, ủng cùng tướng mạo kỳ quái bất lương của ngài. Không ai tỏ ra tôn trọng ngài:

– Quan có cái mũ hai sừng trên chóp sọ! – ngài hiện lên như một loài động vật!

Ồ, cái áo dài đẹp chửa! – ngài chẳng khác nào một mụ già chải chuốt.

Ngài sắp diễn thuyết đấy!- hắn chỉ toàn ba hoa, khoác lác thôi.

– Bắp chân ngài bọc ủng! – hắn chi quen đá đấm và dùng vũ lực với người khác.

– Rậm râu, sâu mắt! – đó là một kẻ nham hiểm và độc ác.

Cuối cùng khi tới Hà Nội, phải đối mặt với Phan Bội Châu, Va-ren cũng phải “bắt đầu” nhiệm vụ dụ hàng của mình. Mọi lời Va-ren với Phan Bội Châu đều nhằm mua chuộc và dụ dỗ. Va-ren đã đưa ra một bản thuyết minh khá công phu không chỉ có lí lẽ mà còn có cả dẫn chứng, không chỉ có dẫn chứng “ta” mà còn có cả dẫn chứng “Tây”. Nào là chuyện của Nguyễn Bá Trác rồi đến chuyện các chiến hữu Guy-xta-vơ, A-lếch-xăng, A-ri-xtít… Nhưng Va-ren càng nói thì bản chất của kẻ phản bội gian trá càng hiện ra rõ hơn.

Cuộc gặp gỡ giữa Va-ren và Phan Bội Châu là cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa hai bờ chiến tuyến. Hai người khác nhau hoàn toàn về vị thế: Va-ren gian trá, lố bịch đại diện cho thực dân Pháp phản động ở Đông Dương; Phan Bội Châu kiên cường bất khuất, là người anh hùng được cả dân tộc tôn vinh. Cuộc gặp gỡ chất chứa những mâu thuẫn gay gắt, quyết liệt. Trong cuộc đối thoại đó, chỉ có lời của Va-ren. Cuộc đối thoại đó trở thành lời độc thoại Va-ren sửng sốt vì ý tưởng có thể thuyết phục được Phan Bội Châu bằng những lời lẽ khôn ngoan sắc sảo của mình. Nhưng không, y hoàn toàn thất bại. Y càng sửng sốt hơn vì nhận ra người đối thoại cao sừng sững, uy nghi và đầy khí phách, còn y chỉ là một kẻ phản bội nhục nhã. Trước cái im lặng dửng dưng, trước cái cười nửa miệng (không chắc chắn lắm) và cái nhổ vào mặt hắn của Phan Bội Châu (cùng không chắc chắn vì đều do người khác kể lại), Va-ren vụt biến thành một con lừa ngốc nghếch, một thằng hề chỉ biết ba hoa, khuếch khoác.

Truyện được viết bằng bút pháp trào phúng sâu sắc, bố cục chặt chẽ, độc đáo gây nhiều hứng thú cho người đọc. Đây cũng là một trong nhiều truyện ngắn làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Nguyễn Ái Quốc – tính trí tuệ sắc sảo và lối hành văn hiện đại. Qua việc “tỉa tót” từng khía cạnh cụ thể của nhân vật Va-ren ở nhiều hoàn cảnh khác nhau mà cao trào là đoạn truyện Va-ren diễn thuyết trước Phan Bội Châu, tác giả đã lần lượt vạch trần bản chất của hắn và gộp lại thành một bức chân dung biếm hoạ độc đáo.

Bằng lối viết sắc sáo, khả năng tưởng tượng phong phú, tác giả đã xây dựng một tình huống truyện rất có ý nghĩa: cuộc đối đầu giữa quan Toàn quyền Đông Dương và người chiến sĩ cách mạng đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Qua những chi tiết được miêu tả, các tình tiết được hư cấu, tác giả làm nổi bật sự đối lập sâu sắc giữa một tên quan lại thực dân mưu mô, xảo trá nhưng đã trở nên hết sức lố bịch trước người chiến sĩ cách mạng kiên cường, không chịu khuất phục trước danh lợi cũng như sức mạnh của kẻ cầm quyền.

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 6

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 7

Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu là truyện kí xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc khi hoạt động ở Pháp. Thông qua cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữ một vị toàn quyền xảo quyệt và người tù cách mạng vĩ đại, Nguyễn Ái Quốc thầm kín đả kích bản chất giả dối của chủ nghĩa thực dân và đề cao khí phách của người anh hùng dân tộc Phan Bộ Châu.

Tác phẩm được viết ngay sau khi nhà cách mạng Phan Bội Châu bị bắt (18-6-1925) ở Trung Quốc giải về giam ở Hỏa Lò – Hà Nội và sắp bị xử án. Phong trào đấu tranh đòi thả cụ Phan diễn ra rất sôi nổi ở trong nước. Cũng vào thời gian này, Va-ren chuẩn bị sang nhậm chức ở Đông Dương. Chưa có tài liệu nào khẳng định Va-ren đã vào nhà tù để thăm Phan Bội Châu.

Phan Bội Châu (1867 – 1940), biệt hiệu Sào Nam, quê lảng Đan Nhiệm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, là nhà yêu nước, cách mạng lớn nhất của dân tộc Việt Nam trong hơn hai mươi năm đầu thế kỷ XX. Ông còn là nhà văn, nhà thơ lớn với một sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ, gồm nhiều thể loại, viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ, hầu hết đều thấm đượm tình yêu nước thương dân thống thiết…

Các tình tiết trong truyện là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của tác giả. Nguyễn Ái Quốc đã viết truyện ngắn này nhằm các mục đích vạch rõ chủ trương bịp bợm của chủ nghĩa thực dân Pháp và phơi bày những trò lừa dào, lô’ bịch của Va-ren. Tác phẩm góp một tiếng nói vào phong trào đấu tranh đòi thả nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu. Đồng thời đó cũng là bài ca ca ngợi vị lãnh tụ yêu nước Phan Bội Châu và ngầm thể hiện tình cảm yêu nước của tác giả.

Nghệ thuật trần thuật của tác giả trong văn bản rất sinh động. Văn bản kể lại toàn bộ diễn biến cuộc gặp gỡ của Va-ren với Phan Bội Châu trong nhà lao Hỏa Lò. Cuộc gặp gỡ ấy diễn ra như một màn hài kịch chi có Va-ren như một diễn viên chủ đạo, như một con rối, y tự tin, trơ trẽn, thao thao bất tuyệt. Hắn cố trổ hết tài năng diễn thuyết và dồn hết tâm huyết hi vọng có thể thuyết phục đối phương đi theo con đường phản bội nhục nhã của mình. Còn Phan Bội Châu thì tuyệt nhiên chẳng thèm nhếch mép nói một lời nào.

Toàn bộ văn bản là một cuộc hành trình chỉ diễn ra trong trí tưởng tượng của Nguyễn Ái Quốc, nhưng qua nghệ thuật kể chuyện độc đáo của tác giả, chúng ta cảm thấy như tùng bước đi của Va-ren hiện ra một cách rõ ràng và sinh động trước ống kính máy quay của một phóng viên thời sự thông minh, năng động, nhạy bén và sắc sảo vậy. Nhân vật Va-ren và Phan Bội Châu được xây dựng theo quan hệ đối lập, tương phản gay gắt. Trước hết, ở mỗi nhân vật, tác giả có cách giới thiệu khác nhau:

Va-ren hiện lên là một con người đã phản bội giai cấp vô sản Pháp, tên chính khách đã bị đồng bọn đuổi ra khỏi tập đoàn, kẻ ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ niềm tin, ruồng bỏ giai cấp mình. Hắn đích thực là một kẻ phản bội nhục nhã. Hắn là mọt kẻ bất lương, nhưng nắm quyền thống trị. Va-ren nói rất nhiều, hắn thao thao bất tuyệt hòng làm lung lạc ý chí và tinh thần của nhà cách mạng Phan Bội Châu.

Ngược lại, Phan Bội Châu xuất hiện với tư cách con người đã hi sinh cả gia đình và của cải đề xa lánh khỏi thấy mặt bọn cướp nước, sống xa lìa quê hương, luôn luôn bị lũ này săn đuối. Cụ luôn bị chúng nhử vào muôn nghìn cạm bẫy, bị chúng kết án tử hình vắng mặt. Cụ xứng đáng là bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ.

Trong cuộc chạm trán giữa Va-ren và Phan Bội Châu, vị thế mỗi người cũng hoàn toàn đối lập nhau và gần như đảo ngược. Vì thế của Va-ren, kẻ thống trị mỗi lúc một thám hại. Còn Phan Bội Châu đang ở vị thế cửa người anh hùng dân tộc mỗi lúc được nâng cao. Trước lời phỉnh dụ của Va-ren, Phan Bội Châu im lặng. Mọi lời nói của Va-ren chỉ như “nước đổ lá khoai”. Đó là thái độ bất hợp tác và khinh bỉ đến tột độ. Thái độ của tác giả đối với mỗi nhân vật cũng hiện ra rất rõ. Với Va-ren là căm thù, khinh ghét; với Phan Bội Châu là ca ngợi, tôn sùng.

Ngay từ lúc bắt đầu câu chuyên, bản chất của Va-ren đã phần nào được hé lộ qua lời “nửa chính thức hứa” của hắn trước sức ép của công luận Pháp và Đông Dương. Nghe qua đó mà đã thấy nực cười. Nửa lời hứa thì còn gì là hứa hẹn. Ấy vậy mà hắn dám trình bày trước công luận. Hơn nữa nó lại được trình bày dưới giọng lưỡi của một vị Toàn quyền Đông Dương…

Nhưng tất cả bộ mặt của Va- ren mới được phơi bày cụ thể và rõ nét trong trò lố chính thức của hắn, khi hắn đối mặt với Phan Bội Châu. Hắn vào nhà tù với câu nói đầy vẻ hào hiệp: “Tôi mang tự do đến cho ông đây!”. Đi kèm với lời nói của một vị thiên sứ ấy là một hành động hết sức lá phải lá trái “tay phải giơ tay bắt Phan Bội Châu, còn tay trái thì nâng cái gông to kệch đang xiết chặt Phan Bội Châu trong nhà tù ảm đạm”. Phải chăng, với lời nói và hành động ấy, Va- ren đã hớ hênh cho người ta thấy rằng bản chất của tự do mà hắn đem đến cho người khác là sụ tự do giả hiệu, là sự nô lệ, đàn áp và bóc lột dã man? Lời nói và hành động ấy đã chỉ cho người đọc thấy hắn là một kẻ hai mặt, độc ác, đê hèn và thấp kém.

Nhưng còn nữa, vừa mới nói rất khoa trương, hào phóng thì giờ hắn lại mặc cả như một mụ đàn bà: Nhưng có đi phải có lại, tôi yêu cầu ông lấy danh dự hứa với tôi rằng…”. Hắn còn giờ giọng phình phờ, giả ca ngợi Phan Bội Châu rồi ra đòn bằng một loạt những câu hỏi phản đề dồn dập hòng làm lung lạc ý chí và tinh thần của nhà cách mạng. Sau đó, Va-ren đưa ra những lời khuyên cho hành động bằng việc sử dụng một loạt các câu cầu khiến ông hãy.., chớ tìm cách xúi giục.., ông hãy bảo họ….

Va-ren vẽ ra một ảo vọng ngời ngời được cho nước ông, được cho bản thân ông! Với những viên đạn bọc đường, Va-ren đang cố làm cho đối thủ của mình mắc bẫy. Hắn đang cố lừa bịp để dẫn dắt Phan Bội Châu đến một nhà tù lớn hơn, nhà tù của một đất nước nô lệ vĩnh viễn. Và hắn tưởng hắn thành công, hoặc giả hắn cố đọc nốt phần diễn thuyết mà hắn đã chuẩn bị. Va-ren nêu gương. Những tấm gương phản bội Tổ quốc nhục nhã. Trong đó hắn là kẻ đốn mạt nhất. Cao trào của sự lố bịch cũng nằm cả ở đây.

Tác giả đã sử dụng thủ pháp gậy ông đề đập lưng ông một cách hết sức tài tình. Toàn bộ lời nói của Va-ren đã tự vạch mặt hắn. Hắn huênh hoang, tự đắc. Hắn vênh váo vì hắn là một kẻ phản bội nhục nhã, đáng ghê tởm đã lần lữa đốt cháy những cái mà mình đã tôn thờ và đang tôn thờ những cái mà mình đã đốt cháy. “Trước tôi là đảng viên Xã hội đấy, và giờ đây thì tôi làm Toàn quyền…”

Như vậy, trong cuộc chạm trán giữa Va-ren và Phan Bội Châu, Va-ren đã nói hết, hắn thao thao bất tuyệt một cách trơn tru bởi chẳng cố ai thèm ngắt lời hắn cũng chẳng cố ai thèm nghe hắn nói. Hình thức ngôn ngữ của Va-ren là hình thức độc thoại. Sự thảm hại của Va-ren còn được ngầm thể hiện một cách rất tinh tế, tất nhiên vẫn qua ngôn ngữ của hắn. Ban đầu là: Tôi đem tự do đến cho ông đây.” Sau đó, người ta chẳng còn thấy một thiên sứ nữa mà thấy một kẻ bất lương. Vả lại trời ơi! Tại sao chúng ta lại cứ cố chấp, cãi lộn nhau mãi thế này… trong khi chẳng ai thèm nói với hắn câu nào. Rồi đến “Ô! ông nghe tôi ông Phan Bội Châu này” Nhưng đến cuối cuộc gặp gỡ thì, “thôi không nghe cũng được”. Chỉ cần Phan Bội Châu nhìn một cái với hắn là cũng đủ lắm rồi: Nhưng sao thể, ông hãy nhìn tôi này….”.

Trong cả cuộc gặp mặt Va-ren, Phan Bội Châu chi im lặng dửng dưng. Mọi lời nói của Va-ren như “nước đổ lá khoai”. Và hơn thế, “đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên một chút rồi lại hạ ngay xuống, mỉm cười một cách kín đáo như cánh ruồi lướt qua vậy“. Và cao trào là Phan Bội Châu đã “nhổ vào mặt Va-ren”. Tất cả những hành động đó dần tăng cấp sự coi thường, khinh bỉ của Phan Bội Châu đối với Va-ren. Chúng thể hiện sự kiên định của ông đối với lí tưởng yêu nước. Chúng tôn lên bản lĩnh kiên cường, bất khuất của “người tù lừng danh”.

Qua việc miêu tả những hành động trên, Nguyên Ái Quốc ngầm bày tỏ sự khâm phục, kính yêu đối với nhà cách mạng vĩ đại Phan Bội Châu đồng thời bày tỏ sự căm ghét phẫn uất đối với Va-ren nói riêng, chủ nghĩa thực dân nói chung. Đó cũng là một trong những biểu hiện yêu nước nồng nàn của nhà báo sắc sảo này. Tính chiến đấu của ngòi bút Nguyễn Ái Quốc thể hiện rõ nhất ở những chi tiết đó. Phần tái bút có một ý nghĩa đặc biệt khắc sâu hơn nữa sự bẩn thỉu của Va-ren và khí phách phi thường của người tù Phan Bội Châu. Lời kể của nhân chứng trong cuộc gặp gỡ (anh lính gác ngục) ở phần tái bút đã góp phần tô dậm thêm tính chất thảm hại của tấn kịch và tạo được sự khách quan cho câu chuyện. Nó nâng cấp tính cách, thái độ của Phan Bội Châu trước kẻ thù: không chỉ dửng dưng, khinh bỉ mà còn chống trả quyết liệt.

Thống qua miêu tả nhân vật toàn quyền Va-ren, tác giả đã vạch trần bộ mặt chủ nghĩa thực dân Pháp mà Va-ren là đại diện, đồng thời ca ngợi người anh hùng Phan Bội Châu – vị lãnh tụ tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam.

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 6

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 5

Với Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu độc giả có thể dễ dàng nhận thấy truyện ngắn này được viết theo lối ký sự, thế nhưng có một điều thú vị ở đây rằng, đây lại không phải là một câu chuyện có thật mà chỉ là một sản phẩm hư cấu của Nguyễn Ái Quốc xuất phát từ việc trước khi về nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, Va-ren đã có lời hứa là sẽ quan tâm tới Phan Bội Châu. Và thực tế lúc tác phẩm ra đời Va-ren vẫn chưa nhậm chức, việc viết Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu của Nguyễn Ái Quốc là để nhằm mục đích khơi dậy phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu trở nên mạnh mẽ, trở thành một sức ép lớn với chính Va-ren cũng như chính quyền Pháp về án của Phan Bội Châu khiến chúng phải dè chừng.

Ngay từ phần mở đầu của tác phẩm Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần sự dối trá và những trò lố của Va-ren bằng những câu văn đậm tính chất trào phúng, rằng chẳng phải vì một nguyên cớ nhân văn nào khác mà Va-ren nhận lời “chăm sóc” vụ Phan Bội Châu, đơn giản chỉ bởi sức ép của dư luận Pháp và Đông Dương, thế nên buộc tên này phải đưa ra một lời hứa cho xong việc nhằm trấn an nhân dân Việt Nam và Đông Dương. Và thực chất hắn hứa như vậy cũng chẳng ảnh hưởng gì đến việc nhậm chức của mình, bởi đơn giản rằng theo như Nguyễn Ái Quốc đó là lời hứa “nửa chính thức”, chẳng có gì là chắc chắn, hơn thế nữa từ lúc đó đến lúc hắn nhậm chức còn tới tận 4 tuần và Phan Bội Châu vẫn phải ở trong nhà tù.

Và thực tế rằng hắn chỉ muốn “chăm sóc đến khi nào yên vị thật xong xuôi ở bên ấy đã”, điều đó đã phần nào bộc lộ được cái bản chất gian xảo của tên này. Việc tác giả viết “giả sử cứ cho rằng một vị Toàn quyền mà lại biết giữ lời đi chăng nữa thì chúng ta lại cứ được phép tự hỏi…ra sao” là đã ngầm cho độc giả được biết rõ bộ mặt thật của Va-ren, hắn cũng sẽ lại giống như những tên quan thực dân trước đây, tàn ác, dối trá và thích làm những trò lố bịch cộp mác chủ nghĩa, nhân văn, khai sáng. Bởi có một thực tế rằng trong quá trình khai thác thuộc địa, để có thể vơ vét được nhiều tài nguyên của cải, thậm chí đưa nhân dân ta đi làm bia đỡ đạn, thì những tên quan này đã nhiều lần đưa ra những lời hứa hẹn tốt đẹp, nghe vô cùng xuôi tai nhưng chúng chưa một lần giữ lời hứa, nhất là khi những lời hứa chẳng đem đến cho chúng chút lợi ích nào cả.

Tiếp đến cuộc chạm trán giữa Va-ren và Phan Bội Châu, tác giả đã xây dựng nên hai hình tượng nhân vật với sự tương phản đối lập cực độ gay gắt. Va-ren là một tên Toàn quyền vừa nhậm chức còn Phan Bội Châu là một người tù cách mạng, một bên là tên bất lương nắm vai trò thống trị, còn một bên là người cách mạng vĩ đại nhưng nay đã lâm vào cảnh thất thế. Cuộc đối mặt đã được Nguyễn Ái Quốc đặt cho một lời bình vô cùng xuất sắc thể hiện rõ nét sự tương phản gay gắt giữa hai nhân vật rằng “Ôi thật là một tấn bi kịch! Ôi thật là một cuộc chạm trán….”, giữa Va-ren, “một kẻ đã ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ lòng tin, ruồng bỏ giai cấp” và một bên là vị lãnh tụ vĩ đại Phan Bội Châu người đã “hy sinh cả gia đình và của cải để xa lánh khỏi thấy bọn cướp nước mình, sống xa lìa quê hương, luôn luôn bị lũ này săn đuổi….”. Và nếu đọc tác phẩm ta có thể thấy rằng tác giả đã dùng một số lượng những từ ngữ lớn, hình tượng ngôn ngữ trần thuật để khắc họa hình ảnh, tính cách của Va-ren.

Nhưng trái lại với Phan Bội Châu thì Nguyễn Ái Quốc lại dùng chính sự im lặng để diễn tả sự khinh bỉ, nét tính cách thanh cao làm đối lập với Va-ren. Đây có thể nói là một cách viết vừa có tính tả thực vừa có tính gợi vô cùng sinh động và lý thú, bộ lộ rất rõ nét sự đối lập tính cách giữa hai con người ở hai chiến tuyến khác nhau. Với nhân vật Va-ren, thì trong cuộc đối thoại (tưởng tượng) của hai nhân vật, y là người nói nhiều, với số lượng lời thoại lớn, còn Phan Bội Châu dường như chỉ giữ im lặng. Vậy nên có thể nói rằng đây là cuộc độc thoại do Va-ren tự biên tự diễn, rất đúng với cái bản chất lố bịch của hắn. Và chúng ta đều có thể nhận thấy rằng quan lời nói của mình Va-ren đã hiện lên là một con người vô cùng nham hiểm và thâm độc, luôn tỏ ra mình là một kẻ ban ơn, nhân đạo khi một tay đỡ gông, một tay bắt tay Phan Bội Châu đồng thời nói “Tôi mang tự do đến cho ông đây”.

Y không ngừng ve vuốt dụ dỗ, bịp bợm một cách trắng trợn bằng những lời lẽ để thuyết phục Phan Bội Châu đầu hàng như là “Ông hãy để mặc đấy những ý nghĩ phục thù”, “bỏ đi những mưu đồ xưa cũ và thôi, chớ tìm cách xúi giục đồng bảo ông nổi lên”, “làm như vậy ông sẽ được tất cả, được cho đất nước ông, được cho bản thân ông”,… Không chỉ vậy hắn còn ghê gớm và lố bịch hơn khi đem những cái tên như Nguyễn Bá Trác, Guy-xta-vơ, A-lếch-xăng,… vốn đều là kẻ phản bội ra để hòng lay chuyển tâm ý của Phan Bội Châu. Lố bịch hơn nữa hắn còn không tiếc khi kể ngay cả về cái lai lịch chẳng lấy gì làm hân hạnh của mình, một kẻ đã từng phản bội niềm tin của đồng đội, đồng chí trong Đảng xã hội rằng “Trước tôi là đảng viên xã hội đấy, và giờ đây thì tôi làm Toàn quyền…” để thuyết phục Phan Bội Châu theo gương mình nhằm có cuộc sống sung sướng, tự do,…

Trái ngược lại với sự ba hoa, khoác loác đầy lố lăng của Va-ren thì hình ảnh Phan Bội Châu lại hiện lên với sự im lặng từ đầu đến cuối, ông phớt lờ mọi lời nói xảo trá, thuyết phục hài hước của Ven-ren và coi như hắn không hề tồn tại. Sự im lặng ấy của Phan Bội Châu đã thể hiện thái độ khinh bỉ cực độ, đồng thời cũng cho thấy bản lĩnh kiên cường của nhà cách mạng trước tên Toàn quyền vô sỉ, cho dù hắn có liên tục dụ dỗ hay gây áp lực cho ông đi chăng nữa. Nét tính cách của Phan Bội Châu càng được biểu hiện rõ khi tác giả dẫn lời của một nhân vật tưởng tượng – anh lính bồng súng chào ở cửa ngục rằng, thấy có sự thay đổi nét mặt của người tù, đó là “đôi ngọn râu mép người tù nhếch lên một chút rồi lại hạ xuống ngay, mỉm cười một cách kín đáo, vô hình và im lặng, như cánh ruồi lướt qua vậy”.

Kết thúc đoạn đối thoại tác giả đã có một lời bình khá thú vị mà chúng ta cần xem xét rằng “Nhưng xét binh tình, thì đó chỉ vì Phan Bội Châu không hiểu Va-ren cũng như Va-ren không hiểu Phan Bội Châu”, đó là một lời bình thật hóm hỉnh và sâu sắc. Hai chữ “không hiểu” ấy đã được tác giả khéo léo giải thích rằng không phải là do khác biệt về ngôn ngữ bởi vốn dĩ đã có người thông ngôn, mà ở đây “không hiểu” là bởi hai con người này hoàn toàn khác nhau về lý tưởng, về mục đích sống, thế nên vĩnh viễn họ cũng chẳng thể có một cuộc nói chuyện “thấu hiểu” được. Và dù cho Va-ren có nói nhiều hơn nữa những lời bịp bợm dối trá thì đối với Phan Bội Châu y cũng chỉ là một kẻ xa lạ, một kẻ không đáng để bận tâm, không cần lãng phí hơi sức tiếp chuyện mà làm gì.

Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu với lối viết trào phúng, lời dẫn chuyện hóm hỉnh hài hước, dùng thể loại bút ký, cùng với các nhân vật hư cấu, ngòi bút tưởng tượng tài hoa, sắc sảo của Nguyễn Ái Quốc đã dựng lên một cuộc chạm trán sinh động, đặc sắc giữa hai con người ở hai chiến tuyến khác nhau. Từ đó là nổi bật lên nét tính cách, thái độ và bản lĩnh kiên cường của Phan Bội Châu trước tên Toàn quyền Va-ren xảo trá, đê tiện, luôn ba hoa khoác loác, thích làm trò lố bịch.

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 4 Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 3

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 4

Chảy trong dòng sông văn học Việt Nam giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945, truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu của Nguyễn Ái Quốc mang một màu sắc và âm điệu độc đáo: được viết bằng chữ Pháp, xuất hiện trên đất Pháp, có tính chiến đấu cao và bút pháp điêu luyện, thể hiện đại. Trong khi nhiều tác giả trong nước bóng bẩy phê phán bọn phong kiến ươn hèn, để nhân dân đói khổ (như Phạm Duy Tôn, Nguyễn Bá Học), hoặc gởi gắm tâm sự yêu nước, lo đời kín đáo, mơ hồn (như Tản Đà, Trần Tuấn Khải) thì Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn vạch mặt lo thực dân xâm lược xảo trá, dã man, bộc lộ một tấm lòng yêu nước, căm thù giặc mạnh mẽ, cháy bỏng. Trái tim người cầm bút yêu, ghét rõ ràng.

Vì thế, tuy xuất bản ở nước ngoài, dùng tiếng nước ngoài, song truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu này, cùng nhiều tác phẩm khác mà Bác Hồ viết với bút danh Nguyễn Ái Quốc, vẫn có giá trị như một áng văn Việt Nam đích thực, góp phần làm sôi động thêm dòng chảy của văn chương dân tộc. Đọc truyện, chúng ta cảm thật rõ ràng hai hình tượng nhân vật đối lập nhau: Đó là những nhân chứng lịch sử và những nhân cách con người…

Trước hết là hình tượng nhân vật Va-ren – một chính khách thực dân xảo quyệt, một kẻ phản bội nhục nhã. Ngay từ những dòng đầu của truyện, Va-ren đã được giới thiệu như một kẻ có lời nói và hành động mập mờ nửa chính thức hứa… giả thử biết giữ lời hứa… liệu quan Toàn quyền sẽ chăm sóc vụ ấy vào lúc nào và ra làm sao? Đó là những từ ngữ mỉa mai, châm biếm nhẹ mà sắc! Và cũng từ đó tác giả định hướng cho nhận vật hiện lên trong thời gian (vào lúc nào) và mang những phấm chất, tính cách cụ thể (ra làm sao).

Về thời gian khi còn ở Pháp, toàn quyền Va-ren chỉ muốn chăm sóc cụ Phan Bội Châu khi nào yên vị thật xong xuôi ở bên ấy đã. Nghĩa là hắn lo cho địa vị thật vững vàng trước đã. Hắn muốn tỏ rõ uy quyền thực dân với công chúng ở Đông Dương trước đã. Còn Phan Bội Châu ra sao, hãy đợi đấy! Do đó, sau khi rời nước Pháp với lời hứa nửa chính thức sẽ chăm sóc cụ Phan Bội Châu, toàn quyền Va-ren đã làm một chuyến đi dềnh dàng, vừa đi vừa nhấm nháp, hưởng thụ những của ngon vật lạ, những lời nói, cử chỉ nịnh hót, tâng bốc của lũ tay sai cấp dưới. Tác giả sử dụng ngòi bút kể chuyện, xen kẽ miêu tả, đối chứng bằng điệp ngừ và những câu văn kéo dài chia chuyến đi của Va-ren làm bốn chặng. Chặng thứ nhất: trên tàu 4 tuần lễ.

Tới Sài Gòn, Va-ren bị quấn quýt lấy, tôi kéo đi, giằng co, ru vỗ ấp ủ trong mớ bòng bong – những cuộc tiếp rước, những lời chúc với tụng. Tiếp đấy là một cuộc tuần du – đi dạo phố phường – để tiếp tục được đón rước, chúc tụng, được hưởng niềm kiêu hãnh trước vẻ sầm uất — tác giả gọi là cái huyền điệu – của mảnh đất mà nước Pháp đã khai hóa. Rồi dừng chân tại Huế. Va-ren lại tiếp tục nhận được sự nghênh tiếp chào mời khúm núm của vua quan nhà Nguyễn. Kể về những cuộc đón tiếp này, tác giả sử dụng ngòi bút thật hóm hỉnh. Câu chữ cứ nhấp nháy, nhảy múa, sấp ngửa, nửa nghiêm trang nửa đùa cợt, vừa nghĩa đen vừa nghĩa bóng. Bộ mặt thật của Va-ren dần dần lộ rõ. Dưới con mắt của nhân dân Sài Gòn, viên toàn quyền – người lo lắng, nực cười. Ngài có cái mũ hai sừng trên chóp sọ… Cái áo dài đẹp chưa? Đôi bắp chân ngài bọc ủng… Rậm râu, sâu mắt…

Từng nét, từng nét qua lời nhận xét của một em bé, rồi lời khen của chị con gái, lời trầm trồ cúa bác cu-li xe và nhất là lời phê phán, đánh giá của một nhà nho, chân dung toàn quyền Va-ren là một mớ hổ lớn, pha tạp; đầu giống con vật (có hai sừng), áo quần diêm dúa như mụ đàn bà đỏm dáng (chiếc áo dài đẹp chưa) vừa giống anh lính tổng cứng quèo (đôi bắp chân bọc ủng). Và nét nổi bật: Va-ren chỉ là kẻ bất lương hung bạo (rậm rau, sâu mắt). Trong cuộc gặp gỡ triều đình An Nam tại Huế, bộ mặt tinh thần của Va-ren hiện lên, cũng thật rõ nét: Đức kim thượng thính ông Va-ren thăm hoàng cung, và ông Va¬ren sẽ vào… thỉnh ông dự yến, và ông… sẽ ăn. Ngài cài lên ngực ông… Nam Long bội tinh và thế là ông Va-ren được gắn mề đay. Chúng ta ngỡ vị toàn quyền ấy dễ tính, mời đi đâu, sẵn sàng đi đấy, mời ăn gì sẵn sàng ăn nấy, tặng gì sẵn sàng nhận luôn. Không, sự “dễ tính” ấy bộc lộ một thói tham lam, háu ăn, hám danh vọng rất đáng ghét. Câu văn đầy tính kịch vì nó miêu tả một cuột gặp gỡ hài hước mà kẻ thăm, người rước đều chỉ là nhừng kẻ lố bịch, những anh hề của một sân khấu hài kịch. Ý nghĩa châm biếm, đả kích của văn Nguyễn Ái Quốc sâu sắc, mạnh mẽ xiết bao!

Tới Hà Nội – cái đích quan trọng nhất của chuyến đi – những trò lố chính thức của Va-ren mới thực sự diễn ra, bộ mặt hề mồi phản trắc, xảo huyệt của tên chính khách thực dân mới thực sự phơi bày Bằng đôi cánh của trí tưởng tượng, người đọc được nhà văn dẫn vào tận cổng nhà lao chính, tận xà lim nới người đồng bào tôn kính của chúng ta đang rên xiết. Ôi thật là một tấn kịch, tác giả đã kêu lên như vậy. Nếu những cảnh trên là… hài kịch thì tới đây tấn kịch diễn ra vừa hài, vừa bi. Màn chưa mở. Tác giả dành một đoạn văn trữ tình ngoại đề để tóm tắt cái tiểu sử bất hảo của Va-ren, đồng thời ca ngợi phẩm chất anh hùng của Phan Bội Châu, về Va-ren, chúng ta đọc thây rặt những dòng chữ đen ngòm, nhơ nhớp con người đã phản bội, tên chính khách đã bị đồng bọn đuổi… kẻ đã ruồng bỏ quá khứ, ruồng bỏ lòng tin, trò lố diễn ra suốt buổi Va-ren gặp Phan Bội Châu.

Trong cuộc chạm trán này, Va-ren tỏ ra là người chủ động, một nhân vật cao sang, hào hiệp. Tôi đem tự do đến cho ông đây. Hắn tuyên bố, rồi nâng cái gông to kếch ở cổ người tù… Chỉ thế thôi, Va-ren treo cái bánh vẽ tự do trước đối thủ, rồi… tấn công, ào ạt, liên hồi… bằng những lời nói dài vòng vo chân thành, thống thiết, lúc châm chọc mỉa mai, lên bổng xuống trầm… Đúng là giọng lưỡi của một anh hề. Va-ren nói những gì? Trước hết, Va-ren mặc cả với Phan Bội Châu về hai chữ Tự do. Một đằng hắn hứa đem trả tự do cho Phan Bội Châu hãy từ bỏ những mưu đồ… chớ tìm cách xúi giục đồng bào… hãy cộng tác với người Pháp. Như vậy, Va-ren đâu có “quý trọng” Phan như hắn nói! Thực chất, hắn đã dụ dỗ người chiến sĩ kiên cường, bất khuất… đầu hàng, phản lại lí tưởng chiến đấu suốt đời mình…

Làm sao Va-ren sửng sốt cả người. Đấy chính là nhân cách hiên ngang, bất khuất của người chiến sĩ. Cũng là cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù, phủ nhận, bác bỏ mọi mưu ma chước quỷ xảo trá của bọn ngoại xâm. Và khi ngọn râu mép cửa nhếch lên một chút – theo lời anh lính dõng kế – nhất là lúc cụ nhổ vào mặt Va-ren như lời một nhân chứng thứ hai quả quyết – thì cuộc chiến trở nên quyết liệt. Người anh hùng ấy đã chiến thắng. Bởi vì, đối với cụ, tất cả lời lẽ và thái độ cúa Va-ren chỉ là một trò… lố bịch, một trò hề! Có thể nói, trong truyện ngắn này, hình tượng được khắc họa bằng một ngòi bút chấm phá kiểu Á Đông. Chỉ vài nét thông thoáng vừa tả, vừa gợi. Nhân vật đã nổi lên, rõ rệt một chân dung, một thần thái có đủ phẩm chất, tính cách. Phan Bội Châu, đó là người chiến sĩ hiên ngang, bất khuất trước mọi mưu đồ nham hiểm, thâm độc của kẻ thù. Phan Bội Châu, đó là bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vô cùng đáng kính của tác giả Nguyễn Ái Quốc xưa kia và của chúng ta – những bạn đọc ngày nay.

Truyện ngắn Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu này nguyên văn tiếng Pháp được sáng tác cách đây trên nửa thế kỉ. Những nhân vật, những sự việc đã đi vào quá khứ. Lúc đầu đọc qua bản dịch, chúng ta có phần bỡ ngỡ. Song vừa đọc, vừa nghiền ngẫm, vừa suy nghĩ, chúng ta vẫn thấu nổi bật lên hai hình tượng nhân vật đối chọi nhau như bóng tối và ánh sáng, một kẻ tiểu nhân phản bội và một người anh hùng trung thành với lí tưởng, hiên ngang, bất khuất. Đó là những nhân chứng lịch sử, những nhân cách con người mãi mãi không phai nhạt.

Đằng sau hai hình tượng là một tấm lòng kết hợp một tài năng, một quá trình rèn luyện đã tạo ra một ngòi bút chiến đấu thật sắc sảo độc đáo: miêu tả sinh động, dung từ linh hoạt, tự nhiên, trào phúng; nhất là nghệ thuật khắc họa nhân vật, tạo tình huống bất ngờ… Nguyễn Ái Quốc – Bác Hồ của chúng ta – ngay từ những ngày đầu cầm bút đã xứng đáng là một nhà văn – chiến sĩ yêu nước.

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 2 Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 1

Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Chậu đăng trên báo Người cùng khổ số 36, 37 tháng 9 và tháng 10 năm 1925. Đoạn trích thuộc phần thứ ba nội dung chính là cuộc chạm trán giữa Va-ren và Phan Bội Châu đầy kịch tính, cho thấy ngòi bút châm biếm sắc sảo của Nguyễn Ái Quốc.

Câu chuyện được bắt đầu bằng tình huống hết sức gay cấn, là cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật: vị lãnh tụ cách mạng Phan Bội Châu và bên kia là Va-ren, kẻ sang Việt Nam nhận chức toàn quyền Đông Dương. Trên thực tế không có cuộc gặp gỡ nào giữa hai nhân vật này, mà thực chất đây chỉ là tình huống hư cấu, tác phẩm được viết trước khi Va-ren sang Việt Nam nhận chức. Cách xây dựng tình huống như vậy nhằm vạch trần bộ mặt bịp bợm, hèn hạ của Va-ren và làm nổi bật vẻ đẹp nhân cách của cụ Phan Bội Châu.

Trò lố của Va-ren được tác giả vạch trần ngay từ đầu tác phẩm, vì sức ép của dư luận nên hắn mới phải “nửa chính thức hứa” chăm sóc vụ Phan Bội Châu. Nhưng điều hắn chỉ muốn “chăm sóc đến khi nào yên vị thật xong xuôi ở bên ấy đã”. Những từ ngữ mỉa mai, châm biếm để người đọc có một định hướng về tính cách của nhân vật này.

Cuộc mặc cả, ra giá bắt đầu, y dụ dỗ, yêu cầu cụ Phan Bội Châu hãy từ bỏ ngay ý định chiến đấu vì nền độc lập dân tộc: “Ông hãy để mặc đấy những ý nghĩ phục thù” “bỏ đi những mưu đồ xưa cũ và thôi, chớ tìm cách xúi giục đồng bảo ông nổi lên” cùng nhau làm những việc tốt đẹp cho xứ Đông Dương, “làm như vậy ông sẽ được tất cả, được cho đất nước ông, được cho bản thân ông”. Không chỉ dùng lời lẽ đe dọa, hắn còn lấy những dẫn chứng, những kẻ phản bội để cho Phan Bội Châu nghe gương mà bị thuyết phục: Nguyễn Bá Trác, Guy-xta-vơ, A-lếch-xăng,… không dừng lại ở đó, hắn còn khoe những chiến công mình giành được khi phản bội lại giai cấp, phản bội lại bạn bè, phản bội niềm tin: “Trước tôi là đảng viên xã hội đấy, và giờ đây thì tôi làm Toàn quyền…”. Càng về cuối bản chất xảo trá, bịp bợm của Va-ren càng bị vạch trần rõ nét hơn. Những lời Va-ren nói, những hành động hắn làm cho thấy hắn là kẻ bịp bợm, phản phúc và trơ trẽn đến tột cùng.

Tác phẩm được viết bằng chất giọng châm biếm, mỉa mai, hóm hỉnh. Tạo dựng tình huống hư cấu bất ngờ, hấp dẫn thể hiện trí tưởng tượng tài hoa của người viết. Qua đó đã làm nổi bật phẩm chất đáng quý của Phan Bội Châu, và bản chất lố bịch, xấu xa của Va-ren.

Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” số 1

Với biện pháp nghệ thuật tương phản, đối lập, giọng văn sâu sắc, hóm hỉnh, khả năng tưởng tượng, hư cấu… “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” đã khắc họa được hai nhân vật có tính cách đại diện cho hai lực lượng xã hội hoàn toàn đối lập nhau ở nước ta thời Pháp thuộc.

Đăng bởi: Ngọc Huyền Nguyễn

Từ khoá: 12 Bài văn phân tích “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu” của Nguyễn Ái Quốc

10 Bài Văn Phân Tích Đoạn Cuối Tác Phẩm “Chiếc Thuyền Ngoài Xa” Của Nguyễn Minh Châu Hay Nhất

Chiếc thuyền ngoài xa là tên một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu viết về đề tài đời sống thường nhật, được sáng tác sau giai đoạn 1975. Thông qua một chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh để tìm tới những vẻ đẹp chân thực của nghệ thuật, nhà văn đã đề cập đến sợi dây gắn kết của văn học và những hiện thực của cuộc sống. Đặc biệt, đoạn cuối trong tác phẩm để lại trong lòng người đọc những giá trị bài học sâu sắc trong đời thực. Để hiểu rõ hơn về ý đồ của tác giả, chúng mình mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” sau:

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 1

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 1

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 4

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 1Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 1

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiên phong trong thời kì đổi mới với nhiều truyện ngắn xuất sắc như Bến quê, Mảnh trăng cuối rừng, Chiếc thuyền ngoài xa,… Các tác phẩm của ông luôn chứa đựng những triết lý, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng là một trong những tác phẩm mang đậm phong cách tự sự – triết lý của ông.

Sau vài ngày “phục kích” mà vẫn chưa ưng ý, cuối cùng Phùng cũng “bắt gặp” một khung cảnh “trời cho”, đó là bức ảnh với những nét đẹp “đắt giá” nhất: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Khung cảnh ấy đẹp quá đỗi và với Phùng, đó là một “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ” vừa đẹp đẽ vừa quý giá vô cùng. Vẻ đẹp của bức tranh “đơn giản và toàn bích”, một vẻ đẹp hoàn hảo, một khung cảnh diệu kì.

Phùng cho rằng “có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy”. Trước khung cảnh ấy, anh cảm thấy sự bồi hồi và có chút bối rối bởi cái đẹp kia toàn mỹ quá, huyền diệu quá, cái đẹp ấy dường như chỉ có trong những bức hoạ xa xưa, nó khiến Phùng cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Và chính trong lúc ấy, Phùng cảm thấy dường như “chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, và anh cho rằng phải chăng “cái đẹp chính là đạo đức”. Bởi cái đẹp không chỉ mang đến những rung động mà còn thanh lọc tâm hồn, mang đến “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình”.

Phải nói rằng, Phùng là người nghệ sĩ có đam mê, trách nhiệm với nghề, bởi để có được bức ảnh ưng ý nhất, anh sẵn sàng “phục kích” hàng tuần trên biển, dù chụp được rất nhiều ảnh về cảnh biển nhưng anh đều không lòng mà tiếp tục tác nghiệp. Hơn thế, anh cũng rất nhạy cảm với cái đẹp để có thể phát hiện ra một bức tranh hoàn mỹ để mà thu lấy, mà cái đẹp ấy chỉ diễn ra trong tích tắc.

Thế nhưng, ít ai để ý rằng, nơi Phùng gác chiếc máy ảnh của mình để thu trọn cái cảnh đẹp kia chẳng phải là một nơi có thể bao quát toàn cảnh mà lại chỉ là bên một “bánh xích của chiếc xe tăng” – tàn tích của chiến tranh để lại. Có lẽ chính vì thế mà trong lần đầu tiên nhìn thấy cảnh đẹp ấy, Phùng mới chỉ có thể nhìn thấy vẻ ngoài của khung cảnh mà không phải là toàn bộ bức ảnh. Và những phát hiện phía sau bức ảnh “toàn bích” kia đã khiến anh phải hụt hẫng vô cùng. Đó là khi Phùng phải chứng kiến một cảnh đời vừa tàn nhẫn, vừa ngang trái và bi kịch, từ một trong những con thuyền bước ra một người đàn ông thô lỗ và một người đàn bà tội nghiệp. Lão đàn ông “hùng hổ, mặt đỏ gay”, rút chiếc thắt lưng “quật tới tấp vào lưng người đàn bà” lão vừa đánh nói những lời nguyền rủa độc ác “chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Và thật kì lạ làm sao, người đàn bà ấy chẳng chút phản kháng, cũng chẳng kêu một tiếng mà “cam chịu đầy nhẫn nhục” hứng chịu từng trận đòn roi.

Chứng kiến cảnh đó, Phùng “kinh ngạc đến mức” chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”. Bởi anh không thể hiểu được điều đang diễn ra trước mắt mình. Anh từng là người lính ở chiến trường khói lửa, những sự dã man, tàn bạo nhất cũng đã từng chứng kiến, thế nhưng cảnh tượng vô lí trước mặt vẫn khiến anh khó lòng mà chấp nhận. Càng kinh ngạc hơn khi hình ảnh của một đứa bé con lao vút qua người anh, “giằng lấy chiếc thắt lưng” và “ưỡn thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của người đàn ông. Đứa bé đó là Phác, đứa con trai của hai vợ chồng người đàn bà nọ. Và đáp lại hành động của thằng bé là hai cái tát “nảy lửa” từ người đàn ông khiến nó “ngã dúi xuống cát”. Khi ấy, người đàn bà hàng chài mới bật khóc, ôm lấy đứa con và rồi lại vội vã “đuổi theo lão đàn ông” và trở lại con thuyền.

Tất cả những sự việc diễn ra trước mắt khiến Phùng “ngơ ngác”, sự việc quái đản diễn ra bất ngờ khiến anh chẳng thể nào hiểu nổi. Chiếc thuyền vó đã biến mất “như trong câu chuyện cổ quái đản”, nhưng lại để lại trong Phùng nhiều điều băn khoăn, nhiều điều bối rối. Cái hình ảnh trần trụi mà anh vừa chứng kiến dường như đã thay đổi cảm quan bên trong con người anh. Anh phát hiện ra rằng: ranh giới giữa cái đẹp và cái xấu, cái hoàn mỹ đạo đức và dã man chỉ cách nhau một tấm màn mỏng. Một bức tranh tuyệt mỹ nhưng ẩn chứa trong nó là bao nhiêu cái dã man, tàn nhẫn và xấu xa vô cùng. Nó cũng là những điều mà nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm, ông cho rằng nghệ thuật tuy hướng về cái đẹp thế nhưng cũng phải gắn liền với hiện thực và không thể lừa đối. Không thể lấy cái đẹp mà che giấu đi những điều xấu xí, tàn ác bên trong được. Và người nghệ sĩ chân chính, phải là người có cái nhìn đa nhiệm, đa chiều, nhìn thấu cả cái đẹp bên ngoài và cả nội dung phía trong nữa.

Sau khi chứng kiến cảnh bạo lực gia đình dã man, vô lí, để giúp đỡ người đàn bà, Phùng đã ở lại bãi biển vài ngày để cùng Đẩu giúp người đàn bà thoát khỏi cuộc hôn nhân “địa ngục”. Thế nhưng người đàn bà ấy đến tòa án huyện bằng khuôn mặt “sợ sệt, lúng túng”, dù rằng đây là lần thứ hai bà ta đến đây để giải quyết công chuyện gia đình. Người đàn bà ấy “rón rén đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”.

Phải sống trong địa ngục trần gian với những trận đòn roi liên tục “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, thế nhưng chị ta lại cam chịu những tổn thương về cả thể xác và tinh thần chứ không chịu bỏ chồng, thậm chí chị ta còn quỳ lạy để cầu xin Đẩu và Phùng để không bắt mình bỏ chồng “Quý tòa bắt tội con cũng được , phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Trước thái độ cam chịu và hành động không sao hiểu nổi của người đàn bà, Phùng và Đẩu cảm thấy bất bình, khó hiểu thế nhưng lắng nghe câu chuyện của chị ta, hai người bỗng hiểu ra tất cả.

Khi kể về câu chuyện cuộc đời mình, người đàn bà ấy đổi các xưng hô từ con- quý tòa sang chị – các chú. Chị ta chấp nhận sống cùng người chồng vũ phu, cam chịu những trận đòn roi vô lí bởi chị ta biết ơn và cũng hiểu được tâm tính của người chồng. Trước kia người đàn ông ấy cũng đã từng là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, ông ta cũng là người duy nhất chấp nhận cưu mang người phụ nữ xấu xí, lỡ thì là chị ta. Bởi vậy với người chồng bạo tàn hiện tại, người đàn bà không chỉ có sự thấu hiểu, tình nghĩa mà còn là sự biết ơn sâu sắc.

Những lời kể chân thật của người đàn bà đã khiến hai người đàn ông sững sờ. Họ chợt hiểu ra tấm lòng của một người phụ nữ, nó bao dung và đầy hi sinh đến nhường nào! Người đàn bà ấy thấu hiểu bản chất và sự thay đổi của người chồng, cũng chỉ vì khổ quá mà chị lại đẻ nhiều con nên người chồng mới trở nên cục cằn, bạo lực. Chị cũng hiểu về cuộc sống trên biển, một con thuyền lênh đênh trên biển không thể thiếu bàn tay chèo lái của người đàn ông, nhất là khi biển động, bão bùng. Và sự cam chịu của chị ta càng trở nên ý nghĩa hơn khi giúp cho những đứa con của mình có một gia đình hoàn chỉnh, có đủ bố mẹ.

Câu chuyện của người đàn bà giúp Phùng và Đẩu hiểu rõ rằng cái căn nguyên của bạo lực gia đình là cái nghèo, là cái đói. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất xù xì của hiện thực, đó có thể là những nghịch lí, những sự thật xấu xí vẫn tồn tại trong cuộc sống mà nếu chỉ nhìn bề ngoài, quan sát bằng đôi mắt hời hợt, khách quan thì không thể nhận ra. Hiện thực ấy cũng giúp Phùng chiêm nghiệm: nghệ thuật không thể chỉ có lãng mạn và thi vị hoá, nó đôi khi còn lại sự thật, là ngang trái.

Sau khi trở về toà soạn và bức ảnh kia được chọn thì trong lòng Phùng lại luôn canh cánh những điều mà ít ai có thể thấu hiểu. Bức ảnh ấy đã diễn tả một cảnh đẹp tinh khôi và trở thành bức ảnh nghệ thuật “được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Thế nhưng, chỉ riêng Phùng có thể nhìn thấy bước ra từ sâu bức tranh ấy bước ra “một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch”.Ở đây, Nguyễn Minh Châu đã cố ý lồng vào đó những hình ảnh mang tính biểu tượng. Một là “màu hồng hồng của ánh sương mai”, đó là biểu tượng cho cái đẹp, cái thơ mộng, cho vẻ đẹp toàn mỹ mà con người ta luôn tìm kiếm. Hai là hình ảnh người đàn bà vùng biển với dáng vẻ mệt mỏi, tiều tụy, đó là hiện thực, đó là cái nhìn có chiều sâu vào sự vật, hiện tượng, để thấy được những nội dung phía sâu bên trong cái đẹp và có đôi khi, cái chiều sâu ấy trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp bên ngoài.

Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm là nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực, không được tách rời với hiện thực và người nghệ sĩ phải là người có cái nhìn đa chiều để phát hiện ra bản chất bên trong về đẹp bề ngoài rực rỡ, hào nhoáng.

Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 10

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 4Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 4

Nguyễn Minh Châu được mệnh danh là người mở đường tinh anh và tài hoa nhất cho phong trào văn học Việt Nam giai đoạn mới. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm tiêu biểu trong đó chúng ta phải nhắc đến tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm đã mang đến cho bạn đọc nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, đặc biệt là đoạn cuối câu chuyện đã gây cho ta nhiều ám ảnh.

Khép lại tác phẩm là bức tranh được nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thu vào bức lịch năm ấy. Bức ảnh năm ấy là cảnh con thuyền kéo lưới đang tiến vào bờ, vài bóng người im phăng phắc, từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thật đơn giản và toàn bích. Đó là một bức ảnh rất nghệ thuật, là một cảnh đắt trời cho, một vẻ đẹp toàn bích hiếm có, mà có lẽ đời nghệ sĩ khó có thể gặp lần hai. Trước vẻ đẹp này, cái thiện, mĩ, giúp người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Thế nhưng đằng sau đó là cả một câu chuyện, cả một cuộc đời nhiều đau khổ, cả một góc khuất của xã hội lúc bấy giờ: Cảnh một người đàn bà làng chài xấu xí, thô kệch bị người chồng cục súc vũ phu hành hạ, nhiếc móc, đánh đập không thương tiếc, càng đau đớn hơn khi người phụ nữ câm lặng chịu nhục, đứa con trai chấp nhận tiếng bất hiếu để bảo vệ mẹ. Đó là cả một câu chuyện rất dài về cuộc đời của một người đàn bà miền biển với đức hy sinh và vẻ đẹp tâm hồn trân quý. Qua bức ảnh và câu chuyện này, bản thân Phùng không chỉ có cảm nhận của một người nghệ sĩ đơn thuần yêu cái đẹp, mà nó còn là một bài học, một phát hiện mới trong cuộc đời, cay đắng nhận ra rằng, đằng sau cái vẻ đẹp toàn bích, toàn thiện kia là những điều hết sức ngang trái, xấu xa và những nghịch cảnh trớ trêu của cuộc đời. Phùng “mỗi lần ngắm kỹ” bức ảnh, cái anh thật sự thấy không phải là cảnh sương sớm ban mai, mà chính là cuộc đời của một người đàn bà mưa nắng nhọc nhằn, là vẻ đẹp đạo đức của một con người có tấm lòng nhân hậu vị tha hơn tất cả.

Đằng sau vẻ đẹp của bức ảnh ấy là câu chuyện của người đàn bà làng chài cùng những suy nghĩ của bà làm ta phải suy nghĩ. Khi đứng trước quan tòa, vị chánh án khuyên bà bỏ chồng, bà van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Bà cam chịu, nhẫn nhịn vì con, muốn con có một gia đình và nuôi chúng nó khôn lớn. Sự cam chịu, nhẫn nhịn của bà bắt nguồn từ tình yêu thương con vô bờ bến. Thương con, chị không muốn con chứng kiến cảnh bạo hành nên xin chồng đánh trên bờ, gửi thằng Phác lên rừng, chị cảm thấy có tội với nó khi vì thương chị mà nó hận bố nó. Bà ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật gây ám ảnh cho Phùng và cũng là thông điệp mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm. Hình ảnh “Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân chị dẫm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” là biểu hiện của dòng chảy cuộc sống, số phận của nhân vật, trở thành một trong những mảnh ghép “không ai nhớ mặt đặt tên” của xã hội.

Bức ảnh là một tác phẩm để đời của Phùng còn câu chuyện đằng sau bức ảnh ấy là bài học lớn khiến Phùng và bao thế bạn đọc phải suy ngẫm, thương cảm, rút ra bài học cho bản thân. Đoạn kết nói riêng và tác phẩm nói chung không chỉ mang đến cho bạn đọc nhiều nhận thức sâu sắc mà còn góp phần làm cho nền văn học Việt Nam thêm phong phú hơn, đa dạng màu sắc hơn.

Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 10Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 10

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 3

Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 10Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 10

Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là người không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của nhà văn. Bằng tài năng của mình Nguyễn Minh Châu đã viết Chiếc thuyền ngoài xa. Truyện ngắn này là một tác phẩm thể hiện tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong thời kì đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường. Đoạn kết tác phẩm đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc đặc biệt là giá trị mà nó mang lại cho chúng ta cho tới tận bây giờ.

Đầu tiên phải kể đến tấm ảnh Phùng đã chụp đã chụp được là cảnh chiếc thuyền lưới vó đang tiến vào bờ. Dưới con mắt cảm nhận của một người nghệ sĩ thì khung cảnh ấy hiện lên thật tuyệt vời không những thế nó mang một vẻ đẹp chân thực và toàn bích. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh thật huyền ảo, tinh khôi, tinh khiết như “một bức tranh mực tàu của một danh họa đời cổ”.

Sau khi tấm ảnh được bổ sung vào bộ lịch năm ấy và góp phần nâng cao uy tín cho tác giả của tấm ảnh: “trưởng phòng rất bằng lòng”. Tấm ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” có giá trị nghệ thuật cao, được mọi người yêu thích, “được treo rất nhiều nơi nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Bộ ảnh ấy xứng đáng với công sức mà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng bỏ ra trong chuyến đi thực tế của mình. Đó là vẻ đẹp mà có khi cả đời Phùng chỉ nắm bắt được một lần. Những người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh ấy cũng là điều dễ hiểu. Nhưng chúng ta cũng nhận ra một điều rằng dưới con mắt của những người yêu nghệ thuật thuần túy, cảm nhận cái đẹp trên bình diện của một tấm ảnh toàn bích, đáng để thưởng thức.

Tuy có một bộ ảnh ưng ý nhưng dường như nhân vật Phùng không bằng lòng với nó vì thực tế những gì Phùng chứng kiến sau đó còn khiến anh ngạc nhiên và có phần hụt hẫng… Đó là hình ảnh của những con người khốn khổ. Phùng là tác giả, nhưng Phùng lại không nhìn lướt, nhìn hời hợt như một số người thưởng thức. Có thể nhiều người chỉ nhìn bề ngoài thấy nó đẹp, thích, trầm trồ khen ngợi một đôi câu… rồi quên lãng! Còn Phùng “mỗi lần ngắm kĩ”, nghĩa là anh đã hơn một lần ngắm kĩ, rồi lại “nhìn lâu hơn”.

Thông qua đoạn kết chúng ta thấy hiện lên vẻ đẹp cuộc sống đời thường với hình ảnh người đàn bà hàng chài “cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm” cứ hiện lên trong sự gợi nhớ của Phùng sau khi ngắm nhìn vẻ đẹp của bức ảnh. Phùng luôn bị ám ảnh bởi cuộc sống của gia đình hàng chài, đặc biệt là số phận đáng thương của những người phụ nữ ở vùng biển này. Ngoài ra, còn thằng Phác, chị nó, và cả lão đàn ông cục mịch, vũ phu. Đó là những mảnh đời khốn khổ, mà ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm trí Phùng vẫn là hình ảnh người phụ nữ hàng chài. Hạnh phúc trong cuộc đời họ là những điều rất đơn sơ, giản dị nhưng không phải bao giờ cũng có được.

Cũng qua chính đoạn kết phần nào cho ta thấy cho ta nhận ra một nghịch lí cuộc đời. Cuộc đời họ bình thường, thầm lặng, nhưng họ là số đông, là thành phần đại đa số của cư dân trên mặt đất lầy “bàn chân chị giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”… Tấm ảnh ấy vẫn cứ nằm bất động ở một nơi sang trọng trong những gia đình sành nghệ thuật! Và đằng sau bóng dáng thấp thoáng ẩn hiện của người phụ nữ này là trái tim nhân đạo của người nghệ sĩ. Phùng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh “bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất, hòa lẫn trong đám đông…”. Những bước đi chắc chắn và hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của Phùng về sự hòa nhập của họ trong hành trình đi lên của cuộc sống.

Những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp cùng với cuộc sống giản dị đời thường mở ra những tầng nghĩa tầng quan sát mới cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lí tưởng như nghệ thuật. Phùng bị ám ảnh mỗi khi nhìn lại tấm ảnh, vì có thể anh nghĩ rằng tấm ảnh đó sang trọng quá, xa cách quá với cuộc sống của những người lao động nghèo khổ kia. Nó chỉ là cái vỏ bọc của những mảnh đời bất hạnh. Giữa nghệ thuật và cuộc sống vẫn còn một khoảng cách. Anh muốn thấu hiểu, chia sẻ, cảm thông nhiều hơn với nỗi đau của người khác bằng tất cả tấm lòng.

Bằng những nỗ lực của bản thân, Nguyễn Minh Châu đã khắc họa các nhân vật cũng như những triết lí nhân sinh thật rõ nét và sắc sảo. Với lối kết cấu vòng tròn: mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện nhà văn đã đưa đến cho độc giả nhiều trải nghiệm thú vị. Giọng văn trầm lắng, suy tư, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ.

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 3Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 3

Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 7

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 3Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 3

Chiếc thuyền ngoài xa là tên một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu viết về đề tài đời sống thường nhật, được sáng tác sau giai đoạn 1975. Thông qua một chuyến đi của một nghệ sĩ nhiếp ảnh để tìm tới những vẻ đẹp chân thực của nghệ thuật, nhà văn đã đề cập đến sợi dây gắn kết của văn học và những hiện thực của cuộc sống. Đặc biệt, đoạn cuối trong tác phẩm để lại trong lòng người đọc những giá trị bài học sâu sắc trong đời thực.

Sau khoảnh khắc bắt gặp được hình ảnh chiếc thuyền đang tiến vào bờ, được tôn vinh vẻ đẹp nên nhờ một bầu không gian rộng mở của biển cả và ánh sáng ban mai của nắng mặt trời. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Cảnh sắc huyền ảo, tinh khôi được điểm tô cả những hoạt động, nét sống của con người với “vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum”.

Sau khi kết thúc chuyến đi, cùng một câu chuyện đời được kể bởi người đàn bà làng chài, tác giả đã bổ sung vào bộ lịch năm ấy bằng hình ảnh của chiếc thuyền ngoài xa. Tấm ảnh đó được trưởng phòng rất bằng lòng, “được treo nhiều nơi nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Họ ra sức tôn vinh, suýt xoa vẻ đẹp mờ ảo được nhìn thấy trong khung hình mà chẳng hề biết được phía sau nguồn gốc của bức ảnh ấy đã có những điều gì xảy ra ngoài xã hội. Đối với những người yêu nghệ thuật, giống như anh Phùng, họ sống cả đời cũng chỉ để mong muốn khao khát được ngắm nhìn, bắt gặp những khung hình nghệ thuật tuyệt vời như vậy.

Thế nhưng, trong bộ ảnh dường như không có gì đáng chê trách, Phùng vẫn có những chút băn khoăn, gợn lòng vì thực tế những gì anh đã chứng kiến trong chuyến đi công tác đã khiến anh có phần hụt hẫng. “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”

Tuy là người chụp nên tấm hình đó, nhưng Phùng vẫn luôn dành biết bao thời gian, tâm tưởng suy nghĩ về người đàn bà hàng chài với “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm”. Anh luôn tưởng sau khi giành được thống nhất, độc lập đất nước, nhân dân đã có được cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn… thế nhưng ở nơi đây, một cuộc sống kham khổ, lam lũ, bữa đói bữa no cùng những trần đòn roi của người chồng vũ phu vẫn đang tiếp diễn mỗi ngay trên bờ biển.

Còn có biết bao nhiêu người phụ nữ khác cũng phải chịu chung số phận như thế. Bên cạnh cuộc đời của người đàn ông kệch cỡm, cùng người đàn bà mệt mỏi ấy, tác giả còn nhìn thấy một vòng đời luẩn quẩn của thằng Phác, con gái của cặp vợ chồng miền biển ấy.

Thế nhưng, gạt bỏ lại tất cả nỗi đau khổ, túng nghèo, có những lúc họ vẫn chấp nhận, mỉm cười với hạnh phúc ấy, vì họ tin rằng đó là nơi họ có thể tìm được một chỗ dựa khi mỏi mệt.

Cũng thông qua đoạn kết ấy, tác giả còn muốn cởi bỏ một lớp màng hào nhoáng về những sự thật của cuộc sống. Chẳng phải là ánh sương hồng ban mai làm ngây ngất lòng người, mà phía sau đó còn là những mảnh đời “ đen trắng”. Nó không hoàn toàn xám xịt, hay đen tối nhưng vẫn khiến cho người ta ám ảnh, chẳng thể thoát khỏi những băn khoăn, lo nghĩ. Tấm ảnh vẫn nằm đó, ngay ngắn trên vách tường nhưng Phùng vẫn nhìn thấy người đàn bà ấy ra khỏi tấm ảnh với “bước chân chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất, hòa lẫn trong đám đông…”. Dù cuộc sống cá nhân cuộc đời họ như thế nào, thì khi ra ngoài xã hội, người đàn bà ấy vẫn rất vững vàng, tự tin hòa nhập và tiếp tục hành trình cuộc sống của mình. Một cuộc đời thầm lặng, vô danh của người đàn bà hàng chài đã vô tình giúp cho tác giả cùng những đọc phải suy ngẫm, soi xét lại bản thân những tính cách và phẩm chất cần có của con người.

Một vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên cũng không thể nào sánh được vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ ấy. Một người phụ nữ luôn nhẫn nhịn, biết hi sinh cho bản thân, gia đình, con cái. Dù đau đớn họ cũng không than phiền, chống trả mà vẫn tiếp tục chịu đựng.

Những đức tính ấy đã được tôi luyện, rèn giũa từ cuộc sống của người lao động vất vả, đắng cay.

Kết thúc câu chuyện, Nguyễn Minh Châu đã như đóng một dấu ấn vào trong lòng người đọc bằng những hình ảnh thật đẹp và những triết lý của cuộc sống. Cuộc sống không chỉ toàn là một màu hồng, sống trong đời cần phải biết mở rộng tầm mắt ra muôn nơi, ngừng than phiền về cuộc sống và phải biết cố gắng, phấn đấu và trở thành những con người tốt đẹp hơn.

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 2

Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 7Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 7

Nguyễn Minh Châu – người mở đường tinh anh và tài năng của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Những tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu sắc với người đọc: “Mảnh trăng cuối rừng”, “Bức tranh” và đặc biệt là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” viết vào những năm đầu thời kì đổi mới.

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu: với cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo.

Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án huyện, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa chụp được một bức ảnh nào. Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó… như là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.

Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là một vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ Phùng chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần: “Trong giây phút bối rối, Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự phát hiện thú vị của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo cái đẹp nghệ thuật.

Tác phẩm không dừng lại ở đó, người nghệ sĩ Phùng bàng hoàng khi phát hiện ra sự thật của cuộc sống bên trong bức ảnh tuyệt mĩ của “Chiếc thuyền ngoài xa”: Bước ra là một người đàn bà mệt mỏi, cam chịu và một lão đàn ông dữ dằn, ác độc, coi việc đánh vợ như là phương cách giải tỏa những uất ức khổ đau: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng… lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, lão vừa đánh vừa thờ hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két…”. Trong “chiếc thuyền ngoài xa”, một sự thật còn trớ trêu, cay đắng nữa: Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng… lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông… liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”. Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống sót xa. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao).

Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại cuộc sống thanh bình, tốt đẹp. Nhưng hiện thực cuộc sống vẫn còn những góc khuất. Đặc biệt là câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện. Bề ngoài, đó là một người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, nhưng người đàn bà vẫn kiên quyết gắn bó với lão đàn ông ấy: “Con lạy quý tòa..Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nguồn gốc của những nghịch lí đó là tình thương vô bờ đối với những đứa con “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng… phải sống cho con chứ không phải sống cho mình”. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.

Người đàn bà hàng chài không có tên, một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh. Người đàn bà ấy thật đáng chia sẻ cảm thông. Lão đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác. Ông ta vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình. Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy?!Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như Phùng, những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy?

Cốt truyện của tác phẩm rất sáng tạo và độc đáo. Những tình huống chứa đầy sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tế vẫn có hình ảnh con người. Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thì chính trong đó lại chứa những cái xấu ác. Một người đàn bà bị chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ lão. Những nghịch lí đó vẫn tồn tại trong cuộc đời như nói lên một triết lí sâu sắc: Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp, không dễ gì khám phá. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống.

Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Có thể khẳng định: Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 5

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 2Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 2

Nguyễn Minh Châu: “Là một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học”. Trước cách mạng sáng tác của ông thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, sau cách mạng bằng sự tìm tòi, đổi mới, ngòi bút của ông hướng hẳn vào những vấn đề thế sự, đời tư, đi sâu vào cuộc sống của con người. Chiếc thuyền ngoài xa khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống muôn mặt đời thường. Tác phẩm mang đặc trưng phong cách sáng tác của ông sau cách mạng.

Mở đầu tác phẩm là một khung cảnh tuyệt mĩ, là cảnh đắt trời cho với chiếc thuyền mơ mộng, thanh bình trong khung cảnh bầu trời sương lãng đãng, lại pha chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Cùng với đó là vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ. Quả thực đây là bức họa kì diệu, mĩ lệ mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Khung cảnh này là khung cảnh mà bất cứ người nghệ sĩ nào cũng mong muốn bắt gặp một lần trong đời làm nghệ thuật của mình. Trước khung cảnh ấy, sao người nghệ sĩ có thể không rung động, Phùng cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc, gột rửa và một niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng. Phùng vừa hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, nhưng hơn cả là Phùng đã tìm thấy tuyệt tác nghệ thuật.

Nhưng đằng sau bức tranh tuyệt đẹp đó là sự thật đau lòng đến đáng kinh ngạc. Hiện thực trần trụi mở ra trước mắt Phùng, người đàn bà xấu xí, mặt rỗ, đi sau là người đàn ông cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền… Thì ra đằng sau cái đẹp tuyệt mĩ mà Phùng vừa mới phát hiện lại là khung cảnh vô cùng tàn nhẫn, nơi mà bạo lực gia đình diễn ra hết sức khủng khiếp. Người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục lẳng lặng đi trước, còn người đàn ông đi phía sau, không nói một lời, nhưng bỗng nhiên trở nên hùng hổ, mặt mũi đỏ gay dùng ngay chiếc thắt lưng vụt tới tấp vào người vợ. Trước khung cảnh ấy người nghệ sĩ Phùng “kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng”… Khung cảnh ấy đã cho nghệ sĩ Phùng nhận thức đầy đủ và chân thực hơn về cuộc sống: cuộc sống vốn không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lí, trong cuộc sống luôn tồn tại cả xấu – tốt, đúng – sai, rồng phượng, rắn rết. Bởi vậy, khi nhìn nhận bất cứ vấn đề nào cũng phải nhìn sâu, nhìn kĩ, đừng vội vã đánh giá sự vật hiện tượng qua vẻ bề ngoài của nó.

Nếu như đầu tác phẩm người đàn bà hàng chài mới chỉ hiện lên ở những nét vẽ hết sức sơ xài, thì trong cuộc gặp gỡ ở tòa án huyện chân dung và số phận của chị đã được thể hiện rõ nét hơn. Người đàn bà hàng chài xuất hiện tại tòa án huyện là do anh đã vào can ngăn người chồng đánh lại chị. Tuy nhiên anh đã bị thương, sau lần đó, anh quyết định nhờ đến sự can thiệp của Đẩu – người đại diện cho công lí, pháp luật để giúp đỡ người phụ nữ khốn khổ này.

Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, thân hình thô kệch, cao lớn, khuôn mặt xấu xí, lại bị rỗ mặt do một trận ốm. Người đàn bà xuất hiện trong tư thế sợ sệt, lúng túng, vì vốn quen với môi trường sông nước, lạ lẫm khi bước vào căn phòng toàn bàn ghế, giấy tờ…Chị ngồi thu mình ở mép ghế, lo lắng, sợ hãi. Chị sợ sự xuất hiện của mình gây phiền hà, vướng víu cho người khác. Trên gương mặt chị không biểu lộ bất cứ điều gì, bình yên và phẳng lặng, nếu ta không có tìm hiểu có lẽ sẽ không bao giờ biết hết được về người đàn bà này.

Thật nhẹ nhàng và bình thản chị kể về câu chuyện cuộc đời mình. Chị vốn được sinh ra trong một gia đình khá giả ở phố buôn bán những vật dụng phục vụ nghề chài lưới nhưng lại không được ưu ái về nhan sắc, sau một trận đậu mùa mặt bị rỗ chằng chịt. Chị gặp gỡ và lấy được người chồng hiện tại. Cuộc sống gia đình bắt đầu rơi vào bi kịch khi họ sinh nhiều con, cuộc sống trên thuyền chật chội, bấp bênh, họ rơi vào cảnh cùng túng, quẫn bách. Anh chồng vốn hiền lành trở nên cục cằn, dữ dằn, thường lôi chị ra đánh. Chị chính là nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng đằng sau vẻ ngoài xấu xí ấy, còn là một người có nội tâm sâu sắc, một tâm hồn đẹp, nhân hậu. Trước hết người đàn bà hàng chài là một người thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị không muốn bỏ chồng vì thứ nhất chị làm nghệ hàng chài, trên một chiếc thuyền của gia đình thì không thể thiếu vai trò của người đàn ông, nhất là khi biển động. Thứ hai một mình chị không thể gồng hành gánh nặng mưu sinh cho chín mười người con. Đối với chị hạnh phúc là khi được nhìn chúng ăn no. Thứ ba, cũng có đôi lúc trên thuyền vợ chồng chị cùng con cái quây quần, hạnh phúc, dù ít ỏi nhưng nó cũng phần nào xoa dịu nỗi đau về thể xác sau mỗi lần bị chồng đánh.

Không chỉ vậy, chị còn là người có tấm lòng nhân hậu, bao dung. Tất cả mọi người đều đề xuất giải pháp từ chối, tẩy chay gã đàn ông, riêng chị thì không. Chị sẵn sàng đứng im chịu trận, không chống trả, không bỏ chạy. Rất thấu hiểu chồng, thông cảm cho chồng. Và đẹp đẽ nhất chính là đức hi sinh, tình yêu thương con sâu sắc. Chị sẵn sàng chịu những trận đòi ròn của chồng để đàn con được ăn no, ngủ yên. Lo thằng Phác sẽ có những hành động sai trái, chị gửi nó lên ở với ông ngoại, để nó không nhìn thấy bố đánh mẹ, để nó khỏi đau lòng và không có những hành động trái với luân thường đạo lí.

Đối với chị niềm vui, niềm hạnh phúc rất đơn giản, là khi gia đình hòa thuận, khi nhìn thấy lũ trẻ được ăn no. Chị yêu con, thương con, mong con khôn lớn nhưng không thể bảo vệ được tâm hồn của các con. Người đàn bà hàng chài hiện ra là hình ảnh đại diện cho những con người vô danh, nghèo khổ, lam lũ nhưng lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý khiến họ trở nên không hề nhỏ bé mà là hiện thân của những gì đẹp đẽ nhất. Bên cạnh người đàn bà hàng chài, ta cũng không thể không nhắc đến Phùng, một người nghệ sĩ tài hoa, nhạy cảm trước cái đẹp. Khi phát hiện ra cảnh đắt trời cho, trong lòng anh xúc cảm trào dâng: rung động, tâm hồn được thanh lọc, hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, lôi máy ảnh ra bấm liên thanh…

Không chỉ vậy anh còn là người có trách nhiệm, có tấm lòng với cuộc đời và con người. Khi chứng kiến cảnh bạo hành, anh sẵn sàng vứt chiếc máy ảnh xuống để giúp đỡ người phụ nữ tội nghiệp. Lần thứ hai can thiệp anh đã bị thương và vì vẫn còn lo lắng cho người phụ nữ kia anh đã nhờ đến sự giúp đỡ của chánh tòa án huyện. Ngoài ra, anh còn là người nghệ sĩ luôn trăn trở với thiên chức nghề nghiệp của mình. Anh phát hiện ra cái đẹp tuyệt mĩ, nhưng đằng sau cái đẹp lại là cái xấu, là hiện thực trần trụi. Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc đời khi nhìn ở xa, khi quan sát với cái nhìn hời hợt. Bởi vậy, cần nhìn nhận con người, sự việc thấu đáo, toàn diện. Cùng với đó là bức tranh xuất hiện cuối tác phẩm, đem đến cho người nghệ sĩ Phùng một chiêm nghiệm khác chính là nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, không được xa rời cuộc sống và phải quay trở về để phục vụ cuộc sống.

Với sự cách tân đổi mới trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật Nguyễn Minh Châu đã tạo nên tác phẩm xuất sắc. Không lấy những người hùng làm nhân vật trung tâm mà đi sâu tìm tòi, phát hiện vẻ đẹp ở những con người bình thường. Tác phẩm cũng là những đúc kết thấu đáo về nghệ thuật và con người: về con người, phải nhìn nhận đa chiều, đa diện, không nên đánh giá phiến diện, một chiều; về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính phải gắn liền với cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời và quay trở lại phục vụ cho cuộc đời.

Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 9

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 5Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 5

Nguyễn Minh Châu không chỉ được xem là một nhà văn tài năng, mà còn là một nhà văn mang được nhiều suy ngẫm triết lí đến cho bạn đọc. Đọc chiếc thuyền ngoài xa của ông ta không chỉ thấy một câu truyện giàu ý nghĩa mà còn ấn tượng với ý nghĩa kết truyện trong tác phẩm.

Tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa, trong mắt Phùng, lúc đầu đó là cả một kiệt tác nghệ thuật, mà anh đã phải lặn lội từ xa tới chiến trường cũ này, mấy ngày nay mới chụp được một kiểu ảnh vô cùng hoàn mĩ. Đó là vẻ đẹp mà được xem như cả đời có khi chỉ có một lần này Phùng mới nắm bắt được cơ hội. Trên bình diện nghệ thuật, có lẽ nó sẽ được chấm điểm 10/10 vì chất lượng, cảm nhận được cái đẹp trên bình diện của một tấm ảnh toàn bích, đáng thưởng thức, đáng được treo trong những phòng khách quan trọng và cao cấp. Và ai đã thưởng thức được nó, chắc hẳn sẽ đáng tự hào và được xem như một món quà nghệ thuật vô giá!

Tuy nhiên, đối với Phùng nó lại là một thứ gì đó khác hẳn. nó chưa hẳn là vậy. Vì với Phùng, tuy chụp được một tấm ảnh hoàn hảo nhưng tâm trạng anh vẫn còn nhiều băn khoăn, day dứt, bởi khi Phùng nhìn tấm ảnh, anh không chỉ thấy hình ảnh của một bức tranh đầy nghệ thuật. Mà còn hiện ra từ đằng sau nó là những hình ảnh khác. Đó là hình ảnh Phùng không nhìn lướt, hời hợt như cách những người khác thưởng thức. Phùng vẫn còn nhìn kĩ hơn, nhìn lâu hơn.. điều đó đã chứng tỏ đằng sau bức ảnh vẫn còn mang nhiều điều gì đó khiến người nghệ sĩ này phải trăn trở?

Hóa ra, Phùng nhìn thấy hình ảnh người đàn bà bước ra từ tấm ảnh. Người phụ nữ hàng chài nghèo nàn, và lam lũ. Có cuộc sống cơ cực khốn cùng trên chiếc thuyền chài mà gia đình lại đông con nên số phận càng chật hẹp, cuộc đời càng mỗi lúc thêm long đong lận đận trên cái thuyền chài lưới bé nhỏ và chật hẹp, cũng như cuộc đời của bà lúc nào cũng chật hẹp, tăm tối như vậy…

Hình ảnh cam chịu, nhẫn nhục của chị khi bị chồng đánh, không hề kêu lên một tiếng. không chống trả, cũng không chạy trốn. Bà đã kể cho chúng ta nghe về một số phận đáng thương nhưng cũng đáng quý. Không có cái cuộc sống nghèo khổ ấy, ta không thể thấu hết được một tấm lòng hi sinh vì hạnh phúc của con cái nhường nào.

Cuộc đời vô thường, bình lặng vô danh không ai biết đến, nhưng người đàn bà hàng chài, người đàn ông, thằng con Phác… tất cả họ đều là đại diện của lớp nhân dân bước ra từ những đói khổ và còn những tệ nạn trong cuộc sống, cái tăm tối mà sau chiến tranh ta cần phải đối mặt “bàn chân chị dẫm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông” Tấm ảnh nghệ thuật đẹp đẽ và lung linh chỉ là cái vỏ bề ngoài mà thôi. Đằng sau nó còn những cuộc sống rách rưới đói nghèo. Tấm ảnh ấy được treo nằm bất động ở đấy ở một nơi sang trọng trong những gia đình am hiểu nghệ thuật. Nhưng phía sau nó lại là cả một ý nghĩa vô cùng quý giá.

Tóm lại, đoạn kết của Nguyễn Minh Châu đã muốn nói đến chiếc thuyền ngoài xa, vẻ đẹp ước mơ lí tưởng của người nghệ sĩ luôn khát khao vươn tới. Nghệ sĩ không những chỉ nhìn bề nổi mà còn phải hiểu sâu sắc cuộc sống phía sau của con người và cuộc sống xung quan

Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 8

Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 9Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 9

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn này được trích trong tuyển tập truyện “Bến quê” (1985). Truyện ngắn đã thể hiện tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong việc khắc họa rõ nét đời sống và thân phận con người trong cuộc sống đời thường.

Điểm nhấn của đoạn kết chính là tấm ảnh mà Phùng đã chụp được, đó là cảnh chiếc thuyền lưới vó đang tiến vào bờ. Dưới con mắt của người đọc thì khung cảnh ấy hiện lên thật đẹp và mĩ mãn. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ, loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Một khung cảnh như vậy khiến cho bất cứ ai nhìn thấy cũng phải thốt lên rằng cảnh này thực sự quá đẹp.

Tấm ảnh này đã được bổ sung vào bộ lịch năm ấy. Tấm ảnh đó rất được trưởng phòng hài lòng, “được treo nhiều nơi nhất trong các gia đình sành nghệ thuật”. Tuy nhiên phía sau nguồn gốc bức ảnh đó chẳng ai biết và cũng chẳng ai muốn quan tâm, chỉ có Phùng biết mà thôi. Nhưng đối với những người đam mê nghệ thuật thì họ chỉ cần như thế là đủ, họ chỉ muốn được ngắm nhìn khung cảnh tuyệt vời như vậy ít nhất một lần trong đời.

Dù là người chụp đấy nhưng Phùng vẫn băn khoăn, trăn trở về người đàn bà hàng chài. Phân tích đoạn cuối của tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa không chỉ đơn thuần là phân tích tấm hình chụp mà còn là tâm trạng của anh phóng viên của tạp chí năm nào. Phùng vẫn dành rất nhiều thời gian, tâm tưởng để suy nghĩ về người đàn bà ấy “tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”.

Tuy nhiên người đàn bà đó vẫn có vẻ kiên cường mà anh không thể nào lí giải được. Anh vẫn luôn tưởng rằng khi đất nước độc lập, thống nhất thì cuộc sống của người dân sẽ ấm no, hạnh phúc hơn. Thế nhưng ở đây, một cuộc sống kham khổ, lam lũ, bữa đói bữa no cùng với người chồng vũ phu vẫn đang tiếp diễn mỗi ngày.

Liệu rằng còn có biết bao nhiêu người phụ nữ phải chịu chung số phận với người đàn bà hàng chài ấy? Một người đàn bà kham khổ, chịu khó nhưng vẫn phải chấp nhận những trận đòn roi qua ngày của chồng có đáng hay không. Nhưng suy cho cùng họ vẫn chấp nhận tất cả, vẫn nở nụ cười rạng rỡ với điều ấy, vì họ tin rằng đây là nơi mà họ có thể tìm về mỗi khi mệt mỏi.

Qua đó, tác giả cũng muốn gửi gắm một thông điệp về cuộc sống sẽ không chỉ có màu hồng hào nhoáng như ánh sương mai. Mà phía sau nó còn có những mảnh đời đen trắng. Nó không hoàn toàn xám xịt hay đen tối nhưng khiến cho người ta không khỏi cảm thấy băn khoăn, lạnh lòng khi nghĩ về những mảnh đời như vậy. Một người phụ nữ luôn nhẫn nhịn, chịu đựng, hy sinh vì gia đình, con cái. Một người phụ nữ có thể chống trả nhưng vẫn tiếp tục chịu đựng. Tất cả những đức tính đấy đều được tôi luyện từ cuộc sống của người lao động vất vả, khó khăn.

Khép lại câu chuyện chính là hình thiên nhiên tươi đẹp, đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong lòng đọc giả. Sự tuyệt vời của thiên cùng với vẻ đẹp truyền thống của người đàn bà hàng chài đã khiến cho mọi người không khỏi ngưỡng mộ.

Như vậy, chúng ta đã phân tích đoạn cuối tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa và thấy được vẻ được của người đàn bà hàng chài chịu thương, chịu khó. Đó chính là vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ trong mọi thời đại.

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm ‘Chiếc thuyền ngoài xa” số 6

Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 8Bài phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” số 8

Nhà văn Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông tham gia bộ đội năm 1950, chiến đấu ở vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ rồi vào chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên. Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, đồng thời cũng là người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ông là ngòi bút có khuynh hướng lãng mạn, sử thi. Ở thời kì sau, ngòi bút của ông chuyển sang đề tài thế sự, quan tâm tới đời sống của con người trong đời thường với những vấn đề về đạo đức, về triết lí nhân sinh.

Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970), tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) với hình tượng trung tâm là những người lính đang chiến đấu chống quân xâm lược Mĩ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã khẳng định tài năng và tên tuổi Nguyễn Minh Châu trong văn học hiện đại. Ông cũng là nhà văn đi đầu trong công cuộc đổi mới văn học với mối quan tâm đặc biệt tới phẩm giá, đạo đức, quan niệm sống của 1 con người trong đời thường. Điều đó được thể hiện qua các tác phẩm như tiểu thuyết Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) và những truyện ngắn như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quế, Khách ở quê ra, Bức tranh. Năm 2000, Nguyễn Minh Châu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác năm 1983 là truyện ngắn xuất sắc nhất của ông ở thời kì sau; nội dung kể về chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh, qua đó thể hiện cách nhìn của tác giả về hiện thực cuộc sống, một cái nhìn thấu hiểu và thấm đẫm tình thương cùng sự băn khoăn, day dứt về thân phận con người. Tác giả cùng gửi gắm trong truyện ngắn này những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời. Người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách hời hợt, giản đơn mà cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người bằng cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt của lí trí kết hợp với rung động chân thành của trái tim nhân ái.

Tác giả đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người lao động trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn và hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Những “hạt ngọc tâm hồn” không hiện ra trong lửa đạn chiến tranh, mà lẩn khuất giữa đời thường đầy sóng gió. Nói đến nghệ thuật viết truyện ngắn, người ta thường nhắc đến ba yếu tố: Nhân vật, giọng điệu trần thuật và tình huống truyện. Trong đó, việc sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo đóng vai trò then chốt, quyết định thành công của tác phẩm. Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn: tình huống hành động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật, tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật thì tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của nhân vật. Chiếc thuyền ngoài xa sở dĩ được đánh giá là tác phẩm xuất sắc bởi tác giả đã xây dựng được một tình huống truyện hết sức độc đáo. Đó là tình huống nhận thức và khám phá về cuộc sống và nghệ thuật của hai nhân vật Đẩu và Phùng.

Tình huống bất ngờ trong truyện đã làm thay đổi nhận thức của hai người trước những nghịch lí của cuộc sống. Trong khi thiên nhiên có vẻ đẹp toàn bích thì cảnh đời lại u ám, đáng buồn. Người có thiện chí giúp đỡ nạn nhân lại bị nạn nhân từ chối quyết liệt. Người vợ bị chồng hành hạ, ngược đãi, thế nhưng vẫn cam chịu, quyết không bỏ chồng mà lại còn bênh vực. Người chồng vẫn có trách nhiệm với gia đình nhưng ngày nào cũng hành hạ vợ.

Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một cảnh biển sớm mai để bổ sung vào bộ ảnh lịch. Anh về lại vùng ven biển miền Trung, nơi trước đây đã từng tham gia chiến đấu chống Mĩ. Phùng gặp lại Đẩu, người bạn chiến đấu năm xưa giờ là chánh án tòa án huyện và được Đẩu tận tình giúp đỡ. May mắn thay, sau mấy buổi sáng kiên nhẫn “mai phục”, Phùng đã bắt gặp khoảnh khắc kì diệu của Cái Đẹp nghệ thuật: Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đất” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hưởng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có gì bóp thắt vào.

Đoạn văn trên đẹp như một bài thơ. Nguyễn Minh Châu đã sử dụng ngôn ngữ rất tài tình để vẽ lên bức tranh cảnh biển buổi sáng mờ sương có đủ đường nét, ánh sáng, sắc màu và cả hình ảnh của con người. Trong màn sương sớm trắng như sữa, phớt chút ánh hồng ấm áp của ban mai, hình ảnh chiếc thuyền từ ngoài xa đang hướng mũi vào bờ đẹp như mơ. Trên mui thuyền, những dáng người ngồi im lặng đầy chất tạo hình. Cận cảnh là tấm lưới vó, viễn cảnh là chiếc thuyền thấp thoáng trong sương. Khung cảnh hài hòa đến độ toàn bích khiến trái tim người nghệ sĩ nhiếp ảnh như thắt lại vì cảm giác sung sướng và hạnh phúc. Đó chính là niềm hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận trước Cái Đẹp tuyệt diệu.

Dường như khi nhìn thấy hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa bồng bềnh giữa trời biển mờ sương, Phùng cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, trở nên trong trẻo, tinh khôi bởi vẻ đẹp huyền diệu của thiên nhiên. Chẳng phải lựa chọn, xê dịch gì, anh nhanh nhẹn gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hồng, bấm máy liên tục, thu vào một phần tư cuộn phim niềm hạnh phúc tột đỉnh của sự khám phá, sáng tạo ấy.

Khi cái cảm giác ngất ngây, thỏa mãn do cảnh đẹp tuyệt vời vừa mang lại cho mình chưa kịp tan đi thì ngay sau đó, Phùng tình cờ chứng kiến một cảnh tượng đau lòng xảy ra ngay trước mắt: Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phả nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.

Họ hiện ra ở một khoảng cách rất gần, đủ để Phùng nhận ra từng nét rõ trên khuôn mặt của người đàn bà và vẻ mặt độc ác đáng sợ của người đàn ông: Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rõ mặt Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà… Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.

Những gì xảy ra trước mắt khiến Phùng không thể tưởng tượng nổi. Bãi cát, nơi có xác chiếc xe rà phá mìn bị hỏng đã trở thành nơi hành tội: Khi người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng thì: Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa,… quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.

Thật kì lạ là người đàn bà khốn khổ ấy không hề kêu rên một tiếng, không chống trả, không trốn chạy mà nhẫn nhục cam chịu. Cảnh tượng đó đã làm cho Phùng kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu… cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Khi anh vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới thì một thằng bé con giận dữ như một viên đạn lao tới đích đã nhắm thẳng vào lão đàn ông. Đứa bé với sức mạnh ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng… của lão. Giằng không được cái thắt lưng da, lão ta liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát… Đứa con đã liều lĩnh lao đến cứu mẹ, để chặn bàn tay tàn bạo của người cha đang trong cơn giận dữ điên cuồng.

Khi biết có người lạ chứng kiến cảnh bạo hành vừa xảy ra, người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Tiếng gọi: Phác, con ơi! của người đàn bà tội nghiệp cất lên đầy tủi nhục và cay đắng. Hình ảnh người đàn bà ngồi xẹp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy… thật khác thường và cũng thật xúc động. Chị ta lạy đứa con mình vì sợ nó thương mẹ, bênh mẹ mà đánh bố là phạm vào tội bất hiếu. Và hình ảnh thằng nhỏ lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt đã để lại ấn tượng khó quên trong tâm trí Phùng.

Cảnh tượng diễn ra và kết thúc quá nhanh khiến Phùng ngơ ngác nhìn ra bờ phải khi người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh… đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền. Điều kì lạ là: Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất khiến Phùng bàng hoàng, sững sờ không hiểu vì sao!

Nguyễn Minh Châu đã phản ánh một nghịch lí của cuộc sống: khung cảnh thiên nhiên thì toàn bích nhưng cảnh tượng đời thường thì tăm tối, đáng buồn. Lần thứ hai chứng kiến cảnh bạo hành, Phùng chạy tới bênh vực người đàn bà. Lão đàn ông đánh anh bị thương. Anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện và tình cờ anh đã được nghe người đàn bà bất hạnh kể về gia cảnh của mình. Phùng và Đẩu lắng nghe với sự cảm thông và thương xót thật sự. Sau khi thấy các biện pháp giáo dục, răn đe người chồng không có kết quả, Đẩu với tư cách là chánh án đã mời người đàn bà đến tòa án để trao đổi về vấn đề này. Tuy đây là lần thứ hai được mời đến tòa, nhưng người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng. Lúc đầu, chị ta chỉ dám ngồi ở góc tường, Đẩu mời lần nữa mới rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Khi nghe vị chánh án hòi: Thế nào, chị đã nghĩ kĩ chưa? thì người đàn bà ngước lên nhìn rồi lại cúi mặt xuống đáp nhò: Thưa …Chánh án Đẩu tưởng người đàn bà hiểu được ý mình nên có thái độ thân thiện và chân thành hơn: Đẩu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên anh rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà đang ngồi, giọng trở nên đầy giận dữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án: – Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị sống không nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Chị nghĩ thế nào?

Đẩu khuyên chị ta nên li hôn để khỏi bị lão chồng hành hạ, ngược đãi. Có lẽ Đẩu tin rằng giải pháp mình đưa ra là đúng, nhưng sau buổi nói chuyện thì mọi lí lẽ của anh ta đều bị người đàn bà khốn khổ ấy bác bỏ. Vị chánh án vừa dứt lời thì người đàn bà sợ hãi ngước lên nhìn rồi lại cúi mặt xuống. Chị ta chắp tay vái lia lịa và xưng con với Đẩu: Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó… Đẩu ngạc nhiên bật hỏi: Sao, sao? tỏ vẻ không hiểu được sự éo le đó. Còn Phùng, sau câu nói của người đàn bà, anh cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá.

Khi nghe vị chánh án đang gọi mình bằng chị bỗng chuyển sang gọi bằng bà và nói rõ chủ trương kêu gọi hòa thuận – nghĩa là đồng ý với sự cầu xin của mình thì người đàn bà ngơ ngác hết nhìn Đẩu lại nhìn Phùng. Đến lúc hiểu ra, chị ta liền thay đổi cách xưng hô, tự xưng là chị, gọi Đẩu, Phùng là các chủ bằng giọng điệu thân mật, chân tình: Chị cám ơn các chú!… Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chủ đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chủ đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc… Rồi chị ta tâm sự về chuyện lấy chồng của mình. Thời trẻ, vì xấu gái nên chị không được ai để mắt tới. Rồi chị có mang với anh chàng làm nghề đánh cá cục tính nhưng hiền lành lắm,… tức là lão chồng hung dữ bây giờ.

Chị ta than thở về gia cảnh nghèo nàn, chiếc thuyền lưới vó thì quá nhỏ hẹp. Chị lại đẻ nhiều quá, nuôi không xuể. Vì thế mà ra nông nỗi: …bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh… Đẩu và Phùng đã lắng nghe chị ta nói về nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền đánh cá không có đàn ông, nhất là những khi biển động. Giọng nói của chị ta như giãi bầy, mong được sự chia sẻ của người nghe: Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông đổ chèo chống khi phong ba, đó cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó

Vẻ mặt của người đàn bà bớt sầu não phần nào khi kể rằng trong cuộc sống lam lũ, cực nhọc, đôi khi vẫn có niềm vui. Ấy là khi vợ chồng con cái sống hòa thuận vui vẻ, vui nhất là lúc nhìn đàn con được ăn no. Chứng kiến cảnh người chồng vũ phu đánh đập người vợ một cách tàn nhẫn và nghe lời kể của nạn nhân, Phùng và Đẩu chợt nhận ra nghịch lí thứ hai của tình huống: Người vợ thường xuyên bị chồng đánh đập, ngược đãi; nhưng vẫn nhẫn nhục cam chịu, quyết không bỏ chồng và lại còn bênh vực lão. Người chồng vẫn có trách nhiệm với gia đình nhưng ngày ngày cứ quen thói hành hạ vợ. Tất cả những điều trên tác động đến Đẩu và Phùng, khiến họ có sự thay đổi trong nhận thức, suy nghĩ và riêng Phùng đã có những phát hiện bất ngờ về quan hệ giữa hiện thực đời sống và nghệ thuật.

Trong Chiếc thuyền – ngoài xa, tình huống truyện giống như một vòng tròn đồng tâm mà nghệ sĩ Phùng cũng như chánh án Đẩu đều phải quay theo để rồi có được giây phút giác ngộ về bản chất của cuộc sống và vỡ lẽ ra nhiều điều mà trước kia họ chỉ suy nghĩ một chiều hoặc chưa bao giờ nghĩ tới. Chẳng hạn như đằng sau cái vô lí lại là cái có lí. Chuyện người đàn bà lam lũ bị chồng hành hạ tàn nhẫn thường xuyên là vô lí, nhưng người đàn bà ấy không muốn bỏ chồng lại rất có lí. Vấn đề tưởng chừng đơn giản hóa ra lại chất chứa nhiều điều phức tạp.

Phùng và Đẩu có nghề nghiệp khác nhau: một là nghệ sĩ, một là chánh án, nhưng sự thay đổi nhận thức của họ lại giống nhau và đều xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, từ mục đích tốt đẹp. Sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài, cả hai đều ngạc nhiên, ngỡ ngàng, rồi vỡ ra nhiều điều mới mẻ: Cuộc đời này đầy rẫy tình huống trái ngang mà sách vở chưa nói tới; còn có nhiều góc khuất trong tâm hồn con người mà nghệ thuật chưa đề cập đến.

Là một chánh án, Đẩu vừa làm phận sự là người đại diện cho pháp luật vừa thực hiện mệnh lệnh của trái tim. Anh muốn giải thoát người đàn bà khỏi những trận đòn tàn bạo của lão chồng bằng lời khuyên li hôn. Anh tin lời khuyên của mình là đúng nhưng anh đã lầm. Ban đầu, Đẩu tưởng li hôn là cách giải quyết dứt điểm được sự bạo hành, là cứu vớt được người đàn bà bất hạnh, nhưng nghe chị ta tâm sự thì anh thấy quan hệ vợ chồng của họ phức tạp hơn nhiều. Từ đó, anh hiểu ra rằng: Muốn giải quyết những vấn đề phức tạp của cuộc sống, không chỉ dựa vào thiện chí, vào pháp luật hoặc lí thuyết sách vở, mà phải thấu hiểu và cần có giải pháp thiết thực. Hóa ra lòng tốt của anh là lòng tốt phi thực tế. Kiến thức sách vở mà anh đã được học trở thành vô nghĩa trước những lí lẽ mộc mạc nhưng sâu sắc của người đàn bà thất học. Sự yên ấm của gia đình và tương lai của những đứa con buộc chị ta phải câm lặng và chịu đựng tất cả. Chị ta chỉ có một nguồn an ủi duy nhất là cuộc sống của mình đâu phải chỉ toàn là những trận đòn tàn bạo của chồng, mà còn có những giây phút hạnh phúc như khi vợ chồng hòa thuận hoặc khi nhìn đàn con được ăn no.

Là người tính xuất ngũ về làm chánh án tòa án huyện vùng biển, Đẩu vẫn giữ nguyên chất lính thẳng thắn, nhiệt tình chống lại cái ác, cái xấu. Phẫn nộ trước sự ngược đãi của người chồng, xót thương người vợ bị bạo hành ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng nên anh đã đi ngược với phương châm lấy hòa giải làm đầu trong khi giải quyết các vụ án li hôn mà bảo thẳng với người đàn bà: Chị không sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu! Anh thực thi luật pháp bằng lí thuyết sách vở và những nguyên tắc đạo đức. Chính vì vậy mà anh đã phán quyết có phần đơn giản trước cảnh ngộ đặc biệt của người đàn bà hàng chài. Đáp lại lòng tốt của anh, người đàn bà đã tế sống anh và năn nỉ xin tòa đừng bắt con bỏ nó.

Người đàn bà dân chài thất học nhưng bằng sự từng trải sâu sắc đã khiến một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công phố huyện. Có thể Đẩu bắt đầu hiểu ra rằng muốn giúp con người thoát khỏi cảnh sống đau khổ, tăm tối thì cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ mà xa rời thực tiễn. Câu chuyện của người đàn bà giúp chúng ta hiểu rõ sự thật về nguyên nhân bi kịch bạo hành trong gia đình, đó là cảnh đói nghèo, bế tắc trong cuộc sống. Đồng thời, chúng ta cũng hiểu sâu hơn về đức hi sinh cùng tâm lí của người phụ nữ lao động trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời.

Sau khi chứng kiến cuộc nói chuyện giữa người đàn bà hàng chài và chánh án Đẩu, Phùng bất chợt nhận ra nhiều điều. Cái đẹp của ngoại cảnh có khi che khuất cái xấu của đời sống. Ban đầu, Phùng ngây ngất trước vồ đẹp thơ mộng, huyền ảo của chiếc thuyền ngoài xa. Về sau, anh nhận ra rằng cái vẻ đẹp bên ngoài đó đã che giấu thực tế nhức nhối bên trong. Ngược lại, cái xấu cũng có thể lấn át cái đẹp. Tìm hiểu sâu về cảnh người đàn bà hàng chài, Phùng lại thấy thực tế nhức nhối đã làm cho những nét đẹp của con người bị lu mờ. Từ mối quan hệ phức tạp ấy, Phùng suy ngẫm và rút ra nhận xét: Để hiểu được bản chất của đời sống thì người nghệ sĩ không thể nhìn nhận một cách hời hợt, đơn giản, mà phải có cái nhìn đa chiều, tỉnh táo và sâu sắc. Phùng đã phát hiện ra những vẻ đẹp khác ẩn chứa đằng sau những bức ảnh và anh đã bỏ nhiều công sức mới chụp được. Nó không toàn bích như tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa mà phản ánh vẻ đẹp của đời thường đa đoan, đa sự. Người nghệ sĩ đừng bao giờ dùng cái nhìn đơn điệu, một chiều trước cuộc sống vốn phức tạp và bí ẩn. Nghịch lí cuộc đời vẫn luôn là điều thách thức đối với mỗi chúng ta nên đừng vì khao khát Cái Đẹp nghệ thuật mà quên đi hiện thực, bởi nghệ thuật chân chính được khơi nguồn từ cuộc đời và được sáng tạo ra vì cuộc đời. Trước khi là người nghệ sĩ biết rung động trước Cái Đẹp thì hãy là con người biết yêu, ghét, vui, buồn trước mọi lẽ thường tình, biết hành động vì những điều tốt đẹp của cuộc sống.

Sự thật trần trụi chứa đựng bên trong Chiếc thuyền ngoài xa chắc chắn đã làm cho cách nhìn, cách nghĩ và cảm quan nghệ thuật của Phùng thay đổi. Bức ảnh thế sự đã được Nguyễn Minh Châu phác họa, được nhà nhiếp ảnh chứng kiến và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về Cái Đẹp nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hóa cuộc đời, bôi hồng tô son hiện thực cuộc đời là giả dối và vô nghĩa trong khi hiện thực cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt.

Phùng bàng hoàng nhận ra sau cảnh đẹp như mơ của chiếc thuyền ngoài xa là bao nhiêu điều ngang trái, xót xa. Tình huống truyện được tạo nên bởi sự tương phản giữa vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa với sự éo le trong gia đình hàng chài. Chính gánh nặng mưu sinh chồng chất trên vai đã biến người chồng thành kẻ vũ phu và khiến người vợ vì thương con, vì sự nghiệt ngã của nghề đi biển, vì hoàn cảnh sống thiếu thốn trên thuyền và nhất là vì sự thấu hiểu người chồng hiền lành nhưng cục tính nên đã nhẫn nhục chịu đựng những hành động tàn bạo của chồng. Nhưng người mẹ ấy không biết là mình đã làm tổn thương tâm hồn những đứa con. Thằng Phác vì thương mẹ, bênh vực mẹ mà thành ra căm ghét chính cha đẻ của mình.

Phùng cay đắng nhận ra bi kịch và cái ác lộng hành trong gia đình thuyền chài kia như thứ thuốc rửa quái đản, làm cho những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình khủng khiếp, ghê sợ. Giống như chiếc thuyền ngoài xa có vẻ đẹp huyền ảo trong sương sớm, khi ra khỏi khoảng cách xa xôi, huyền ảo hoặc phơi mình dưới ánh mặt trời thì sẽ trở nên xấu xí, tầm thường.

Sau khi gặp và nghe người đàn bà bất hạnh nói về chính mình ở tòa án huyện thì Phùng mới vỡ lẽ ra nhiều điều về con người và cuộc sống xung quanh. Anh đã hiểu vì sao người đàn bà ấy cam chịu đến nhẫn nhục, cắn răng chung sống với người đàn ông coi việc đánh vợ như phương thức duy nhất để giải tỏa khổ đau, uất ức. Thì ra, trên thuyền rất cần có một người đàn ông bởi nhiều khi biển động, sóng to gió cả. Vả lại, ông trời sinh ra người đàn bà để đẻ con và nuôi con khôn lớn. Người vợ cần có một người chồng để cùng làm lụng nuôi con. Chị ta hiểu rất đúng rằng chỉ vì đói nghèo, túng quẫn mà chồng mình hóa ra hung bạo. Tình thương con và lòng vị tha khiến chị quên đi nỗi đau triền miên như sóng biển, còn niềm hạnh phúc hiếm hoi như châu ngọc thì chị giữ lấy làm nguồn an ủi: Trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái hòa hợp vui vẻ,… Chị nói thật lòng: Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con được ăn no.

Câu chuyện khép lại bằng kết quả chuyến đi thực tế của Phùng. Bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa được đưa vào bộ lịch phong cảnh biển và được đánh giá rất cao: Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm… Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đêm đông…

Với Phùng, có thể coi đây là một chuyến đi có ý nghĩa phát hiện và thức tỉnh: chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi và ở ngay trước mắt. Qua đó, chúng ta thấy chân lí cuộc đời có lúc, có nơi không phải là chân lí nghệ thuật. Điều đó thể hiện ở chi tiết mỗi khi Phùng nhìn ngắm và thưởng thức vẻ đẹp của bức ảnh, anh đều cảm thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh.

Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ chân chính. Từ tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống và qua sự thay đổi nhận thức của Phùng, của Đẩu, tác giả đã khẳng định mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực. Theo ông, bổn phận của người nghệ sĩ là phải phát hiện ra bản chất của cuộc đời. Cái Đẹp, cái Thiện trước hết phải là sự chân thực, Cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận con người và cuộc sống mà cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng với sự tìm tòi, phát hiện để hiểu đúng bản chất của nó.

Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm ‘Chiếc thuyền ngoài xa” số 6Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm ‘Chiếc thuyền ngoài xa” số 6

Đoạn kết của tác phẩm là những chiêm nghiệm của tác giả thông qua nhân vật Phùng về những triết lý nhân sinh của cuộc sống, từ một tấm ảnh mà sau đó là ẩn chứa cả một cuộc đời, một số phận với nhiều góc khuất cần thấu hiểu, cảm thông. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện một quan điểm mới về cách nhìn nhận cuộc đời rằng cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, đồng thời chấp nhận rằng trong những cái nghịch lý vẫn luôn tồn tại những cái có lý.

Đăng bởi: Hằng Nguyễn

Từ khoá: 10 Bài văn phân tích đoạn cuối tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu hay nhất

Cập nhật thông tin chi tiết về 12 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm “Lão Hạc” Của Nam Cao Hay Nhất trên website Ysdh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!