Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Khổ Cuối Bài Thơ Vội Vàng Của Xuân Diệu Sơ Đồ Tư Duy &Amp; 16 Bài Phân Tích 10 Câu Cuối Bài Vội Vàng được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Ysdh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phân tích khổ cuối Vội vàng của Xuân Diệu
Dàn ý phân tích khổ cuối bài Vội vàng
Phân tích 10 câu cuối bài Vội vàng
Phân tích khổ cuối Vội vàng
Phân tích Vội vàng khổ 3
Dàn ý phân tích khổ cuối vội vàngI. Mở bài
Xuân Diệu yêu đời, ham sống, nhưng trong thân phận của một thi nhân mất nước lúc bây giờ, ông luôn lo sợ vì thấy cuộc đời ngắn ngủi, tuổi trẻ, tuổi xuân qua nhanh, nên ông “sống vội vàng, sống cuống quýt” để tận hưởng cuộc đời của mình. Cách sống ấy của thi nhân đã được nâng lên thành quan niệm, triết lí trong bài thơ Vội vàng như lời tự bạch của ông trước cuộc đời. Và cao trào tình cảm của thi phẩm chính là lúc lòng yêu đời, ham sống của nhà thơ bùng lên dữ dội, hối hả, cuồng nhiệt ở cuối bài:
II. Thân bài
1. Vì sao ở cuối bài thơ, lòng yếu đời, ham sống của tác giả lại bùng lên dữ dội, hối hả, cuồng nhiệt như vậy
– Đó chính là cao trào tình cảm tất yếu phải đến trong mạch thơ Vội vàng của tác giả:
Mở đầu bài thơ là những biểu hiện của lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến si mê, ngây ngất của nhà thơ.
Tiếp đến, lại là những băn khoăn, lo lắng của nhà thơ khi ông cảm thấy cuộc đời mình ngắn ngủi, tuổi trẻ, tuổi xuân qua nhanh.
Trong nỗi băn khoăn, lo sợ đó, nhà thơ thấy rõ nếu không đến nhanh với cuộc sống để tận hưởng thì sẽ mất nó, vì thế mà ông phải vội vàng đến ngay để ôm ghì lấy nó trong vòng tay của mình.
– Câu thơ bản lề để cho cao trào tình cảm trào ra cuồng nhiệt chính là: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Đó là lời tự giục giã của nhà thơ. Chính vì “mùa chưa ngả chiều hôm” nên phải “mau đi
thôi” để đến với cuộc sống đó, để Ta muốn ôm… tất cả những gì có trong cuộc sống đó.
2. Cách sống vội vàng, hối hả, cuồng nhiệt của nhà thơ được biểu hiện như thế nào?
– Nhà thơ muôn ôm ghì, riết chặt cuộc sống trong vòng tay của mình vì sợ mất nó:
– Nhà thơ muốn tận hưởng cuộc sống đó ở những cảm giác cuồng nhiệt, mãnh liệt nhất:
Từ ôm đến riết, đến say, đến thâu, đến cắn…
Từ rất nhiều sự vật, hiện tượng của cuộc sống: mây đưa, gió lượn, cánh bướm, tình yêu, cái hôn, non nước, cây, cỏ, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng…
Và rất nhiều cảm giác: chếnh choáng, đã đầy, no nê…
Diện tận hưởng rất rộng mà cường độ tận hưởng lại rất cao, rõ nhất là trong câu thơ cuối ” – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Chưa bao giờ trong văn chương lại có một tiếng nói thơ ca mới mẻ và táo bạo đến thế. Đó chính là sự bùng nổ mãnh liệt của “cái tôi – cảm xúc” trong Thơ mới thời kì 1932 – 1941 mà Xuân Diệu là một gương mặt tiêu biểu. Cả đoạn thơ, đặc biệt câu thơ cuối, đã nói lên rất rõ thần thái của Xuân Diệu.
– Tất cả những điều nói trên đã được thi nhân bộc lộ bằng một tiếng nói thơ đặc sắc, mang tính nghệ thuật cao. Đúng là sự bùng nổ của “cái tôi – cảm xúc” đã kéo theo sự bùng nổ về nghệ thuật thơ, đem đến những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu ở đoạn thơ này:
Cảm xúc dâng trào mạnh mè làm cho âm điệu câu thơ cuồn cuộn, dồn dập, diễn tả được sự vội vàng, hôi hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống của nhà thơ.
Dùng nhiều động từ chỉ hành động và chỉ cảm giác mạnh, ngày càng tăng tiến để bộc lộ cái cảm xúc bùng nổ của thi nhân:
Cái gì cũng ở cường độ cao, ở trạng thái mê say, ứ tràn.
+ Sử dụng nhiều điệp từ: ta (5 lần), và (3 lần) cho (3 lần) càng khiến câu thơ thêm dồn dập, cảm xúc thơ dâng trào, và con người thơ vội vàng, cuống quýt, cuồng nhiệt của Xuân Diệu được bộc lộ rõ với cái thần thái, sắc diện riêng của thi nhân, không thể lẫn được.
III. Kết bài
Nếu Vội vàng là lời tự bạch của Xuân Diệu trước cuộc đời lúc bấy giờ, khắc họa rõ nét gương mặt riêng của con người thi nhân, thì đoạn cuối bài thơ chính là những nét tiêu biểu, sinh động nhất của hồn thơ đó.
Sơ đồ tư duy khổ cuối Vội vàng Phân tích 10 câu cuối bài Vội vàng Bài làm mẫu 1Xuân Diệu là cái tên không hề xa lạ trong văn đàn Việt Nam. Ông được mệnh danh là ” nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Thơ của ông mang màu sắc tươi mới, tràn trề sức sống và chứa đựng khát khao mãnh liệt được tận hưởng cuộc đời. Tình yêu cái đẹp và yêu cuộc sống của ông được thể hiện vô cùng sâu sắc qua trong bài thơ “Vội vàng”. Đặc biệt là khổ thơ thứ ba của tác phẩm với khát vọng tận hưởng mãnh liệt.
Hồn thơ Xuân Diệu cực kỳ nhạy cảm với những bước đi của thời gian. Bởi thời gian một đi sẽ không trở lại nên trong suy nghĩ của Với Xuân Diệu, khoảng thời gian đẹp đẽ và đáng sống nhất là tuổi trẻ với đam mê và tình yêu say đắm. Tuổi trẻ tràn trề sức sống và rực cháy những hoài bão, sống và cống hiến hết mình. Tuổi trẻ đẹp nhưng ngắn ngủi và trôi mau. Có lẽ vì vậy mà Xuân Diệu luôn sống vội vàng, có phần gấp gáp và luôn yêu say đắm.
Nếu ở những khổ thơ trước, Xuân Diệu giãi bày tâm sự về tình yêu mãnh liệt và nỗi nuối tiếc chia lìa thì đến đây, nhà thơ đưa ra câu trả lời cho châm ngôn sống vội, sống tận hưởng của mình:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm “
Cụm từ “mau đi thôi” vang lên như một lời thúc giục. Tác giả nhận ra vẫn còn kịp để yêu và sống trọn vẹn tuổi xuân, với những gì đẹp đẽ nhất. “mùa chưa ngả chiều hôm” tức là xuân vẫn còn đó, giọng điệu nồng nhiệt, thiết tha theo cảm xúc ấy cũng vui tươi trở lại. Dấu chấm than đặt giữa câu càng nhấn mạnh thêm cảm xúc hối hả đang trào dâng trong lòng người thi sĩ.
Xuân Diệu vẫn ý thức được thời gian đang chảy trôi không ngừng, tuổi trẻ chưa hết nhưng chắc chắn nó sẽ biến mất. Phải khẩn trương và nhanh hơn nếu không muốn bản thân rơi phải hối hận khi thời gian qua đi. Đây là quan niệm sống vô cùng mới mẻ, thể hiện khát khao muốn sống và tận hưởng hết mình của con người. Nhà thơ vội vàng muốn sống, muốn chiến thắng cả dòng chảy của thời gian.
Tất cả những dồn nén và khát khao cùng đánh thức những ham muốn tột cùng của người thi sĩ.
Cụm từ “ta muốn” được nhắc lại nhiều lần liên tiếp khiến nhịp thơ bỗng nhanh hơn, dồn dập hơn. Nó thể hiện khát khao mãnh liệt của nhà thơ, muốn ôm trọn vào lòng vẻ đẹp của thiên nhiên, ôm cả vũ trụ, cả mùa xuân của đất trời. “Tôi” đến đây đã chuyển hóa thành “ta”. Cái tôi cá nhân đã hòa chung với cái ta chung cộng đồng. Khát khao cháy bỏng kia không phải của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Nó thôi thúc, giục giã những ai đang mang trong mình sức sống của tuổi trẻ.
Với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên và sự sống mà Xuân Diệu khát khao là thiên nhiên giữa thời tươi, là sự sống mới bắt đầu mơn mởn. Sự vội vàng đến đây ngày càng trở nên rõ ràng. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến xuất hiện trong các dòng thơ: “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn”.
Nhà thơ muốn ôm sự sống bắt đầu chớm nở. Xiết chặt vào lòng để níu giữ bước chân chuyển dịch thời gian “mây đưa gió lượn”. Đắm say trong sự ngọt ngào, nồng cháy của tình yêu đất trời “cánh bướm với tình yêu”.
Đặc biệt, nhà thơ muốn dùng cả vị giác để lột tả hết khát khao tột độ của mình. “Thâu trong những xái hôn nhiều” để thưởng thức trọn vẹn hương vị và hơi thở của thiên nhiên, của vạn vật. Tất cả cùng truyền cho người đọc dòng cảm xúc hăm hở cuồng nhiệt của một tâm hồn say tình đắm đuối.
Xuân Diệu muốn tận hưởng mọi thứ:
Điệp từ “cho” liên tiếp kết hợp với tính từ “no nê, chếnh choáng, đã đầy” không chỉ thể hiện cảm xúc cuồng nhiệt, mãnh liệt mà còn khẳng định tâm thế của người luôn sẵn sàng hòa mình vào thiên nhiên, cuộc sống. Sự cộng hưởng của điệp từ “và” tạo hình ảnh rộng lớn, bao quát như khao khát muốn ôm trọn tất cả của nhà thơ.
Lời yêu cháy bỏng đã không thể kìm nén mà vang lên đầy tha thiết:
“- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
Động từ “cắn” ở câu thơ cuối đồng thời khép lại bài thơ chính là điểm nhấn ấn tượng nhất của cả bài. Xúc giác, khứu giác hay vị giác cũng không đủ để tận hưởng. Nhà thơ muốn dùng hành động táo bạo mạnh mẽ hơn để chiếm hữu tối đa vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc đời. Nhà thơ muốn chạm vào nhiều hơn, muốn nuốt trọn hương sắc của đất trời không cho nó biến mất.
Có thể nói, với cách sử dụng ý thơ theo cấp độ tăng tiến. Cách sử dụng từ ngữ mạnh bạo, giàu sức gợi kết hợp với nhịp thơ biến hóa vui tươi, vồ vập, giục giã. Đoạn thơ thứ 3 trong bài thơ “Vội Vàng” đã diễn tả chân thực quan niệm nhân sinh tiến bộ và mới mẻ của Xuân Diệu. Không chỉ bộc lộ cái tôi khát khao mãnh liệt sống, tận hưởng. Nhà thơ còn muốn gửi gắm tới mọi người thông điệp nhân sinh ý nghĩa. Sống phải biết trân trọng thời gian, sống phải biết tận hưởng, yêu hết mình và cũng phải hiến dâng hết mình.
Với những giá trị đó, đoạn thơ nói riêng, bài thơ “Vội vàng” nói chung đã thể hiện thái độ sống vô cùng tích cực. Đồng thời giúp người đọc cảm nhận được tâm hồn Xuân Diệu, một hồn thơ yêu đời, giàu xúc cảm và có nhân sinh quan tiến bộ về cuộc đời.
Bài làm mẫu 2Xuân Diệu là cái tên không hề xa lạ trong văn đàn Việt Nam. Ông được mệnh danh là ” nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Thơ của ông mang màu sắc tươi mới, tràn trề sức sống và chứa đựng khát khao mãnh liệt được tận hưởng cuộc đời. Tình yêu cái đẹp và yêu cuộc sống của ông được thể hiện vô cùng sâu sắc qua trong bài thơ “Vội vàng”. Đặc biệt là khổ thơ thứ ba của tác phẩm với khát vọng tận hưởng mãnh liệt.
Hồn thơ Xuân Diệu cực kỳ nhạy cảm với những bước đi của thời gian. Bởi thời gian một đi sẽ không trở lại nên trong suy nghĩ của Với Xuân Diệu, khoảng thời gian đẹp đẽ và đáng sống nhất là tuổi trẻ với đam mê và tình yêu say đắm. Tuổi trẻ tràn trề sức sống và rực cháy những hoài bão, sống và cống hiến hết mình. Tuổi trẻ đẹp nhưng ngắn ngủi và trôi mau. Có lẽ vì vậy mà Xuân Diệu luôn sống vội vàng, có phần gấp gáp và luôn yêu say đắm.
Nếu ở những khổ thơ trước, Xuân Diệu giãi bày tâm sự về tình yêu mãnh liệt và nỗi nuối tiếc chia lìa thì đến đây, nhà thơ đưa ra câu trả lời cho châm ngôn sống vội, sống tận hưởng của mình:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm “
Cụm từ “mau đi thôi” vang lên như một lời thúc giục. Tác giả nhận ra vẫn còn kịp để yêu và sống trọn vẹn tuổi xuân, với những gì đẹp đẽ nhất. “mùa chưa ngả chiều hôm” tức là xuân vẫn còn đó, giọng điệu nồng nhiệt, thiết tha theo cảm xúc ấy cũng vui tươi trở lại. Dấu chấm than đặt giữa câu càng nhấn mạnh thêm cảm xúc hối hả đang trào dâng trong lòng người thi sĩ.
Xuân Diệu vẫn ý thức được thời gian đang chảy trôi không ngừng, tuổi trẻ chưa hết nhưng chắc chắn nó sẽ biến mất. Phải khẩn trương và nhanh hơn nếu không muốn bản thân rơi phải hối hận khi thời gian qua đi. Đây là quan niệm sống vô cùng mới mẻ, thể hiện khát khao muốn sống và tận hưởng hết mình của con người. Nhà thơ vội vàng muốn sống, muốn chiến thắng cả dòng chảy của thời gian.
Tất cả những dồn nén và khát khao cùng đánh thức những ham muốn tột cùng của người thi sĩ.
Cụm từ “ta muốn” được nhắc lại nhiều lần liên tiếp khiến nhịp thơ bỗng nhanh hơn, dồn dập hơn. Nó thể hiện khát khao mãnh liệt của nhà thơ, muốn ôm trọn vào lòng vẻ đẹp của thiên nhiên, ôm cả vũ trụ, cả mùa xuân của đất trời. “Tôi” đến đây đã chuyển hóa thành “ta”. Cái tôi cá nhân đã hòa chung với cái ta chung cộng đồng. Khát khao cháy bỏng kia không phải của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Nó thôi thúc, giục giã những ai đang mang trong mình sức sống của tuổi trẻ.
Với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên và sự sống mà Xuân Diệu khát khao là thiên nhiên giữa thời tươi, là sự sống mới bắt đầu mơn mởn. Sự vội vàng đến đây ngày càng trở nên rõ ràng. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến xuất hiện trong các dòng thơ: “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn”.
Nhà thơ muốn ôm sự sống bắt đầu chớm nở. Siết chặt vào lòng để níu giữ bước chân chuyển dịch thời gian “mây đưa gió lượn”. Đắm say trong sự ngọt ngào, nồng cháy của tình yêu đất trời “cánh bướm với tình yêu”.
Đặc biệt, nhà thơ muốn dùng cả vị giác để lột tả hết khát khao tột độ của mình. “Thâu trong những xái hôn nhiều” để thưởng thức trọn vẹn hương vị và hơi thở của thiên nhiên, của vạn vật. Tất cả cùng truyền cho người đọc dòng cảm xúc hăm hở cuồng nhiệt của một tâm hồn say tình đắm đuối.
Xuân Diệu muốn tận hưởng mọi thứ:
Điệp từ “cho” liên tiếp kết hợp với tính từ “no nê, chếnh choáng, đã đầy” không chỉ thể hiện cảm xúc cuồng nhiệt, mãnh liệt mà còn khẳng định tâm thế của người luôn sẵn sàng hòa mình vào thiên nhiên, cuộc sống. Sự cộng hưởng của điệp từ “và” tạo hình ảnh rộng lớn, bao quát như khao khát muốn ôm trọn tất cả của nhà thơ.
Lời yêu cháy bỏng đã không thể kìm nén mà vang lên đầy tha thiết:
“- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
Động từ “cắn” ở câu thơ cuối đồng thời khép lại bài thơ chính là điểm nhấn ấn tượng nhất của cả bài. Xúc giác, khứu giác hay vị giác cũng không đủ để tận hưởng. Nhà thơ muốn dùng hành động táo bạo mạnh mẽ hơn để chiếm hữu tối đa vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc đời. Nhà thơ muốn chạm vào nhiều hơn, muốn nuốt trọn hương sắc của đất trời không cho nó biến mất.
Có thể nói, với cách sử dụng ý thơ theo cấp độ tăng tiến. Cách sử dụng từ ngữ mạnh bạo, giàu sức gợi kết hợp với nhịp thơ biến hóa vui tươi, vồ vập, giục giã. Đoạn thơ thứ 3 trong bài thơ “Vội Vàng” đã diễn tả chân thực quan niệm nhân sinh tiến bộ và mới mẻ của Xuân Diệu. Không chỉ bộc lộ cái tôi khát khao mãnh liệt sống, tận hưởng. Nhà thơ còn muốn gửi gắm tới mọi người thông điệp nhân sinh ý nghĩa. Sống phải biết trân trọng thời gian, sống phải biết tận hưởng, yêu hết mình và cũng phải hiến dâng hết mình.
Với những giá trị đó, đoạn thơ nói riêng, bài thơ “Vội vàng” nói chung đã thể hiện thái độ sống vô cùng tích cực. Đồng thời giúp người đọc cảm nhận được tâm hồn Xuân Diệu, một hồn thơ yêu đời, giàu xúc cảm và có nhân sinh quan tiến bộ về cuộc đời.
Phân tích khổ cuối Vội vàng Bài làm mẫu 1Bài thơ Vội Vàng được trích từ tập “Thơ thơ” của tác giả Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện được phong cách sống mãnh liệt, hết mình, không bỏ lỡ mất một giây phút nào. Đặc biệt là con người vào những thời điểm còn trẻ, khỏe, tràn đầy sức sống. Xuân Diệu luôn mang một hồn thơ yêu đời, tận dụng hết mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Xuân Diệu được ví là ông hoàng thơ tình, luôn có những dòng thơ lãng mạn. Trong đó, khổ thơ thứ nhất và thứ 2 đã tôn vinh tình yêu nồng cháy, mãnh liệt, hết mình. Khi phân tích 10 câu cuối bài Vội Vàng, chúng ta trả lời được câu hỏi như thế nào là sống vội?
Trong đoạn thơ cuối bài Vội Vàng, 6 câu trên tác giả thúc đẩy mọi người bằng lối thơ rất tự nhiên:
Cụm từ “mau đi thôi” thể hiện giọng điệu, thái độ thúc giục tất cả chúng ta. Nhà thơ Xuân Diệu muốn nói rằng chúng ta vẫn còn thời gian để sống hết mình, yêu thương. Đặc biệt là bạn đang trong thời gian tuổi thanh xuân, sức trẻ nồng cháy. Tiếp theo là “mùa chưa ngả chiều hôm”, đừng nghĩ đến việc chia xa, hãy trân trọng tình yêu đang có.
Điệp từ “ta muốn” được nhắc đi nhắc lại 4 lần, khuyên chúng ta hãy luôn trân trọng tuổi trẻ. Có những điều chỉ có tuổi trẻ mới có năng lực làm, luôn biết yêu thiên nhiên, cuộc sống. Nhà thơ nhấn mạnh vào các động từ như: Ôm, riết, cắn, thâu, thể hiện sự tấn công mãnh liệt, sự khát khao vô cùng lớn về tình yêu. Các động từ này thể hiện hành động từ cấp độ thấp đến cao. Từ việc ban đầu là ôm ấp, tiếp theo là riết chặt, muốn hòa quyện vào nhau thì hãy cắn.
4 câu thơ cuối, Xuân Diệu gửi gắm ý nghĩa rằng hãy hòa mình cùng thiên nhiên tươi đẹp:
Thông qua việc phân tích 10 câu cuối bài Vội Vàng, chúng ta hiểu kỹ hơn về tình yêu của nhà thơ. Tác giả sử dụng điệp từ “và” kết hợp với “non nước, cây, cỏ rạng” để miêu tả tổng thể cảnh quan thiên nhiên hoang dã. Tiếp theo là điệp từ “cho” một cách no nê, chếnh choáng, đã đầy, để dâng hiến hết thanh xuân cho thiên nhiên. Mùi hương thơm của thiên nhiên cây cỏ làm con người có cảm giác dễ chịu, thoải mái. Ánh sáng bao phủ khắp mọi nơi, soi đường chỉ lối cho chúng ta.
Bao quát của thiên nhiên vô cùng rộng lớn, tuy nhiên tác giả lại muốn ôm trọn trong vòng tay. Đây không phải là sự tham lam, mà là khát khao chiếm hữu trọn vẹn thiên nhiên. Từ 1 cá thể hòa chung với thiên nhiên rộng lớn. Từ những ham muốn riêng của bản thân, tác giả muốn được cống hiến, đóng góp với xã hội, đất trời. Cuối bài thơ tác giả viết “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi” rất mạnh mẽ và táo bạo.
Chúng ta có thể thấy cảm xúc của tác giả rất mãnh liệt, chi tiết đến từng hành động. Chứng tỏ rằng, nhà thơ đang yêu điên cuồng, nồng cháy, hết mình với khả năng. Xuân Diệu đưa cách sống của ông vào thơ, luôn vội vàng như tuổi trẻ. Chúng ta sống, làm việc và biết tận hưởng, luôn lạc quan, yêu đời. Mặt khác, chúng ta cũng cần phải đóng góp, dâng hiến và trân quý những việc làm tốt đẹp mà cuộc sống ban tặng.
Về hình thức nghệ thuật thì cực kỳ điêu luyện, cảm xúc và lý luận xen lẫn nhau. Bài thơ có sự sáng tạo, mới lạ về ngôn từ, phong cách viết với thể thơ tự do. Qua bài thơ, Xuân Diệu muốn nhắn nhủ rằng hãy luôn sống vội vàng, xứng đáng nhất.
Phân tích 10 câu cuối bài Vội Vàng, chúng ta không những được học hỏi lối thơ độc đáo. Qua đó, chúng ta còn thấy được tình yêu cuộc sống, thiên nhiên, con người mãnh liệt nhất. Sự thôi thúc mãnh liệt của tác giả, giúp chúng ta thấy được luôn cần phải sống hết mình.
Bài làm mẫu 2Xuân Diệu chính là ông hoàng thơ tình yêu với rất nhiều bài thơ về tình yêu, con người, đất nước đặc sắc, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả. Có rất nhiều nhà thơ viết về mùa xuân, nhưng có lẽ không có mùa xuân nào lại gấp gáp, vội vàng như mùa xuân của Xuân Diệu. Với những thi sĩ khác, mùa xuân là sự sống là hưởng thụ chồi non, là sống chậm, bình yên. Còn với Xuân Diệu mùa xuân vừa là sự sống nhưng lại trôi rất nhanh, nên phải vội vàng hưởng thụ, nếu không mùa xuân qua mau. Bài thơ Vội Vàng trích trong tập Thơ Thơ là bài thơ hay, lạ, độc đáo về cách nhìn nhận mùa xuân, con người, sự sống của tác giả. Đặc biệt trong khổ 3 bài thơ Vội Vàng, mùa xuân đến cũng chính là đang đi, do đó hãy tận hưởng, sống trọn vẹn từng giây phút như hôm nay chính là giây cuối cùng của cuộc đời. Khổ 3 cũng chứa đựng nhiều châm ngôn, triết lí của nhà thơ gửi gắm trong đó.
Mở đầu đoạn thơ là lời thúc giục gấp gáp “mau đi thôi” thể hiện sự vội vã.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất tác giả sử dụng ngôi số 1 là Tôi, thì sang khổ thơ thứ 3 tác giả lại sử dụng đại từ nhân xưng “Ta”. Cách sử dụng chuyển ngôi mang một ý nghĩa sâu sắc đó chính là sự đồng điệu giữa các tâm hồn. Ta rộng hơn cái tôi rất nhiều. Ta là tất cả mọi người, hãy nhanh lên thôi, mỗi ngày trôi qua rất nhanh cần phải gấp gáp vội vàng để có thể tận hưởng những phút giây hạnh phúc của cuộc đời.
Lúc này đây, ta – muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn. Mùa xuân là thế, đó là mùa của sự hồi sinh và đâm chồi nảy lộc theo đúng nghĩa đen và nghĩa bóng. Cây cỏ, hoa lá vào mùa xuân đua nhau khoe sắc, tỏa hương, mọi sự trong mắt tác giả đều mơn mởn sự sống, tràn đầy tươi mới. Chính điều này khiến cho tác giả muốn ôm lấy tất cả, dù cho sự sống ấy vô cùng lớn lao nhưng ông vẫn muốn giữ cho riêng mình. Hay nói đúng hơn, ông đang muốn sống tận hưởng trọn vẹn từng giây phút của sự sống, của hạnh phúc của sự mơn mởn.
Sang tiếp 4 câu thơ sau, nhịp điệu thơ càng gấp gáp, dồn dập hơn thể hiện ước muốn mãnh liệt của tác giả:
Trong đoạn thơ này tác giả sử dụng nhiều động từ mạnh như “riết, say, thâu” thể hiện khao khát mãnh liệt về sự sống, về ước vọng sống trọn vẹn từng giây phút. Qua đây ta cũng cảm nhận được bức tranh thiên nhiên mùa xuân mới tươi đẹp, đầy sức sống làm sao. Đó là mây gió, là cánh bướm, là non nước, cỏ cây. Một bức tranh với đầy đủ cảnh vật mùa xuân và xen lẫn trong đó là tình yêu và những nụ hôn ngọt ngào. Bức tranh mùa xuân của Xuân diệu mới trọn vẹn làm sao, vừa có hơi thở của thiên nhiên mùa xuân, vừa có hơi thở của tình yêu. Mùa xuân và tình yêu là hai điều đẹp tuyệt vời mang lại cho con người ta cảm giác hạnh phúc lâng lâng.
Đặc biệt những câu thơ cuối càng khẳng định được những khát vọng và ước nguyện của ông về mùa xuân:
Vậy là những câu thơ cuối chính là kết quả của sự khát khao sống vội vàng ở trên. Mục đích cuối cùng là tác giả chỉ muốn tận hưởng cuộc sống chếnh choáng đến nô nê, đến mê say. Trước sự mơn mởn của mùa xuân, ông nhận ra rằng khi sống hết mình mới có thể thấy được cuộc đời này tươi đẹp làm sao. Nếu sống hết với đam mê mới biết rằng ta sống xứng đáng và không uổng phí từng giây phút nào. Nhất là khi ta có tuổi trẻ, ta đang tận hưởng những mùa xuân đẹp nhất của cuộc đời, vậy ta phải tận hưởng, phải sống hết mình để sống và tận hưởng cuộc sống như những giây phút cuối cuộc đời.
Khao khát mãnh liệt ấy khiến tác giả phải thốt lên rằng: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Từ Xuân hồng nghe rất thắm và mềm mại, đầy sự sống. Xuân hồng chính là mùa xuân, mùa xuân ở độ chín hồng, mang đậm khát vọng tuổi trẻ, khát khao sống mãnh liệt. Mùa xuân đẹp đến nỗi mà tác giả chỉ muốn cắn vào, hay chính xác hơn là muốn đắm chìm vào sự ngọt ngào ấy. Tác giả chỉ muốn đắm mình vào tận hưởng những giây phút hạnh phúc tuyệt vời của xuân hồng.
Qua phân tích khổ 3 bài thơ vội vàng chúng ta càng hiểu phần nào khát khao của tác giả. Qua đây, chúng ta càng trân quý hơn cuộc sống, trân quý thời gian. Thời gian trôi qua rất nhanh mỗi mùa xuân cũng qua rất nhanh, hãy sống trọn vẹn từng giây phút nhất có thể. Đoạn thơ vô cùng độc đáo với những ý thơ mạnh mẽ đầy khát vọng, thể hiện rõ tâm tình của tác giả muốn gửi gắm đến mọi người.
Bài làm mẫu 3Xuân Diệu là nhà thơ trữ tình nổi tiếng của Việt Nam. Từ nhỏ, ông đã được nuôi dưỡng tâm hồn qua những điệu hò lý, câu hát ví dặm. Những yếu tố này đã tác động khiến cho hồn thơ và ngôn từ của ông mượt mà hơn. Chưa dừng lại ở đó, ông còn chịu ảnh hưởng của nền văn học cổ điển, hiện đại của Phương Tây. Tất cả những điều này đã khiến cho thơ của Xuân Diệu mang nét riêng đặc trưng không trộn lẫn.
Ông được nhiều độc giả biết đến với rất nhiều tập thơ hay. Trong đó, Vội Vàng chính là tác phẩm nổi bật được in trong tập Thơ Thơ vào năm 1938. Đây là tập thơ đầu thể hiện phong cách và tư tưởng của Xuân Diệu một cách rõ ràng. Chỉ với hai chữ “vội vàng” nhưng đã thể hiện rõ hết những châm ngôn, triết lý mà ông muốn gửi gắm.
Mở đầu đoạn cuối là lời thúc giục “mau đi thôi” để thể hiện sự vội vã. Trong khi mùa chưa ngả chiều hôm thì hãy tranh thủ tận hưởng, làm việc để có thể cảm nhận sự sống trọn vẹn.
Ở đoạn thơ đầu, tác giả xưng “Tôi” thì đến đoạn cuối ông lại dùng “Ta”. Đây không chỉ là cách sử dụng mang ý nghĩa ẩn dụ mà còn tạo nên sự độc đáo cho đoạn thơ. tác giả muốn dùng từ ta để tìm kiếm sự đồng cảm cùng với mọi người. Qua cách nhìn của Xuân Diệu, sự sống có tính chất đó là sự mơn mởn, tràn đầy tươi mới. Chính cái sự mơn mởn ấy đã khiến tác giả nảy sinh ước mong muốn ôm hết tất cả. Mặc dù biết sự sông ấy rộng lớn, bao la thế nhưng ông vẫn muốn giữ chặt lấy cho riêng mình.
4 câu thơ tiếp theo với nhịp điệu gấp gáp, dồn dập thể hiện mong ước mãnh liệt hơn.
Người thi sĩ muốn được hòa cùng với sự sống của thiên nhiên. Những hình ảnh như mây đưa, gió lượn, cỏ cây, non nước đã góp phần mang đến bức tranh tuyệt đẹp. Thông qua đó, chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận được bức tranh hùng vĩ mà tạo hóa ban cho. Mức độ giao cảm được thể hiện rõ ràng hơn qua các từ “ôm”, “riết”, “say”. Tất cả ước nguyện còn được thể hiện rõ ràng hơn qua hai từ “tôi muốn”. Điệp từ này lặp lại ở hầu hết các câu thơ như lời thúc giục gấp gáp. Có chăng, Xuân Diệu đang muốn ôm cả sự sống vào mình. Như vậy mới là sống trọn vẹn với cuộc đời.
Những câu thơ đầu của đoạn cuối đã phần nào thể hiện được châm ngôn, ước nguyện của tác giả. Thế nhưng, chúng ta chẳng thể nào hiểu được vì sao ông lại có lối suy nghĩ ấy. Những câu thơ tiếp theo sẽ phần nào lý giải được khao khát của Xuân Diệu.
Thực tế, Xuân Diệu chỉ muốn tận hưởng cuộc sống đến chếnh choáng, đến no nê. Trước sự mơn mởn ấy, ông nhận ra rằng chỉ khi sống hết mình mới biết được cuộc đời đẹp thế nào. Chỉ khi ta hòa mình hết vào những gì tươi đẹp mới không cảm thấy uổng phí tuổi trẻ. Mỗi lần thể hiện khát khao của ông lại mạnh mẽ hơn với mục đích gửi gắm tâm tình đến mọi người.
Khao khát mãnh liệt ấy đã khiến tác giả phải thốt lên rằng “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”. Từ Xuân Hồng nghe rất đằm thắm và mềm mại. Nó không chỉ khiến cho mùa Xuân trở nên tươi mới mà còn có hồn và sức sống hơn. Mùa xuân đẹp đến nỗi khiến cho chúng ta muốn cắn vào để say đắm trong sự ngọt ngào.
Phân tích khổ cuối bài Vội Vàng, chúng ta đã phần nào hiểu rõ hơn về khát khao của tác giả. Qua đó, mỗi người sẽ cảm nhận và thêm trân quý sự sống. Mỗi phút giây trôi qua đừng nên bỏ phí mà hãy sống vội vàng hơn để tận hưởng hết những điều tươi đẹp. Với ngôn từ độc đáo cùng với các diễn tả đầy mới mẽ, đoạn thơ đã để lại dấu ấn riêng trong lòng người đọc.
Bài làm mẫu 4Thời gian chẳng bao giờ chiều lòng người, con người thì nhỏ bé nhưng khát khao lại lớn lao, càng yêu đời, yêu người bao nhiêu thì lại càng thảng thốt khi nhận ra quy luật khắc nghiệt của tạo hóa. Là một nhà thơ mới có cái nhìn tinh tế và trái tim dễ say đắm nhưng cũng bộn bề lo sợ – Xuân Diệu hơn ai hết luôn dằn dặt trước sự trôi chảy của thời gian và tuổi xuân. Có lẽ thế mà nhà thơ luôn sống vội vàng, sống gấp gáp và cũng yêu đắm say. Bài thơ Vội Vàng được xem là châm ngôn sống của Xuân Diệu cũng là tác phẩm thể hiện cái tôi mãnh liệt trong cảm xúc và nhiều khám phá mới mẻ ở hình ảnh thơ. Trong đó khổ thơ cuối bài với tiết tấu nhanh và mạnh như một lời kết luận cho châm ngôn sống vội của ông.
Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu luôn khao khát sống và sống gấp, sống vội. Nếu ở khổ thơ đầu và khổ thứ hai là tình yêu mãnh liệt cùng với sự nuối tiếc chia lìa thì đoạn thơ cuối bài là lời giải đáp cho câu hỏi: sống vội vàng là như thế nào. Cụm từ “mau đi thôi” như một lời thúc giục khi tác giả nhận ra rằng vẫn còn kịp để yêu thương và sống trọn vẹn với tuổi xuân cho đến phút cuối cùng. Phải rồi! “mùa chưa ngả chiều hôm”, xuân vẫn còn đó, người đang yêu tha thiết thì tại sao phải nghĩ nhiều đến chia lìa để hao hụt niềm vui hiện tại. Vì thế mà Xuân Diệu bừng tỉnh và giọng điệu thơ trở lại sự nồng nhiệt thiết tha.
Điệp từ “ta muốn” tạo thành một cấu trúc câu đều đặn, hối hả như thúc giục mọi người hãy yêu quý tuổi trẻ của mình, hãy làm những điều mà chỉ có tuổi trẻ mới làm được và trước hết là say đắm với thiên nhiên, tình yêu của mùa xuân. Thêm vào đó là các động từ chỉ tâm thế: ôm, riết, say, thâu, cắn diễn tả được tình cảm vồ vập và niềm khao khát tận hưởng đến tham lam. Các động từ này có sự tăng tiến rõ rệt trong ước muốn. Ban đầu chỉ là một cái ôm nhẹ nhàng nhưng đủ cho sự khát khao, phải siết mạnh thì mới cảm nhận được tình yêu. Khi gần nhà thơ say sưa thâu tóm tất cả vào mình và cuối cùng là hành động mạnh nhất là cắn, như muốn chiếm hữu làm của riêng.
Những câu thơ tiếp theo, Xuân Diệu sử dụng điệp từ cho kết hợp với tính từ “no nê, chếnh choáng, đã đầy” để khẳng định tâm thế của một con người lúc nào cũng hòa mình vào thiên nhiên, cuộc sống. Không phải chỉ vừa đủ mà để cuộc đời hóa thân thành tâm hồn, tâm hồn thì chan chứa tình yêu.
Sự cộng hưởng của điệp từ “và” tạo nên sự rộng lớn, bao quát như chính vòng tay tham lam muốn ôm trọn tất cả của nhà thơ. Bài thơ khép lại trong sự hóa thân từ cái tôi cá nhân nhỏ bé thành cái ta chung. Nhà thơ đi từ những khát vọng riêng tư vươn lên thành khát vọng muốn được sông đẹp và cống hiến trọn vẹn với vũ trụ, đất trời. “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người“, câu thơ mới lạ và táo bạo. Cảm xúc được cụ thể hóa bằng hành động cũng là điều hợp lí trong trái tim của nhà thơ đang yêu điên cuồng.
Khổ thơ cuối của bài khép lại bằng những sáng tạo độc đáo trong cách dùng từ, đặt câu. Nhà thơ bộc lộ quan điểm sống của mình cũng là quan điểm chung của tuổi trẻ: sống là phải biết tận hưởng, yêu đời nhưng cũng phải dâng hiến và trân trọng những điều tốt đẹp mà cuộc đời ban tặng.
Phân tích Vội vàng khổ 3 Bài làm mẫu 1“Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu trích trong tập thơ “Thơ và Thơ” của nghệ sĩ tài năng Xuân Diệu. Bài thơ là tiếng nói tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống, thiết tha với tuổi trẻ của Xuân Diệu. Mười câu thơ cuối bài chính là khúc hát khép lại bài thơ với những quan niệm nhân sinh sâu sắc.
Nếu như ở những vần thơ trên tác giả dùng “tôi” thì ở đây Xuân Diệu lại dùng “Ta”. Theo như Chu Văn Sơn lý giải: “Ở trên, tác giả xưng ”tôi” để đối thoại với đồng loại, ở dưới lại xưng “ta” để đối diện với sự sống”. Dưới con mắt của tác giả, sự sống hiện lên “mơn mởn”. Từ láy “mơn mởn” miêu tả sức sống căng tràn, tươi mới. Chính cái “mơn mởn” của sự sống khiến tác giả như tham lam “muốn ôm” lấy tất cả. Sự sống ấy rộng lớn lắm, bao la lắm nhưng nghệ sĩ ấy vẫn muốn ôm lấy, giữ chặt lấy.
Nhịp thơ như gấp rút, giọng thơ như dồn dập, cảm xúc như dâng trào bật lên thành những ước nguyện cao đẹp:
Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ “ôm”, “riết”, đến “say”, “thâu”, và sau cùng là “cắn”. Từng lần từ “ Ta muốn” vang lên là từng ước nguyện được nói lên. Nhân vật trữ tình như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn đắm say với “cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy “một cái hôn nhiều”. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”. Điệp từ “ta muốn” cùng nhịp thơ dồn dập như diễn tả hơi thở gấp gáp của thi nhân và nhịp điệu hối hả của trái tim vội vàng. Phải chăng thi sĩ Xuân Diệu của chúng ta đang nồng nhiệt đối rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình? Phải chăng sống vội vàng, sống hối hả, sống nhiệt huyết như thế với Xuân Diệu mới được gọi là sống trọn vẹn?
Lí giải cho những ham muốn của mình, thi nhân có viết:
Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến diễn tả Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong cảm xúc dạt dào, trước cuộc sống “mơn mởn” ấy, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời chỉ đẹp khi sống hết mình, khi đam mê hết mình, khi hòa hết mình vào cái khoảnh khắc tươi đẹp nhất của tuổi đời con người – tuổi trẻ.
Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn và rồi đến cuối cùng, tác giả phải thốt lên:
“– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
“ Xuân hồng” hai từ thôi mà nghe sao mềm mại thế, nghe đằm thắm thế. Mùa xuân không chỉ còn là tên gọi mà mùa xuân trong thơ Xuân Diệu trở nên có hồn, có sức sống. Mùa xuân ấy đẹp, ngọt ngào như đôi môi người thiếu nữ khiến “ Ta muốn cắn vào ngươi”. Mùa xuân là cái hữu hình, làm sao thi nhân có thể cắn? Đúng thi nhân không thể cắn nhưng thi nhân có thể hòa mình vào mùa xuân, có thể say đắm trong cơn tình dịu ngọt của mùa xuân.
Khổ thơ cuối với ngôn từ đậm chất thơ Mới, thoát khỏi những vi phạm của quy luật chặt chẽ thơ ca trung đại đã diễn tả không chỉ cảm xúc mãnh liệt của Xuân Diệu trước cuộc đời, trước tuổi trẻ mà còn ẩn ý về một cái tôi trữ tình tràn đầy sự thèm khát được sống, được tận hưởng một cách cuồng nhiệt những thanh sắc của cuộc đời.
Bài làm mẫu 2Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình Việt Nam, là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới mẻ, thể hiện quan niệm sống mới, quan niệm thẩm mĩ độc đáo cùng nữ các tân nghệ thuật táo bạo. Được in trong tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu cho nhịp sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu. Là người yêu đời, ham sống tha thiết, mãnh liệt nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, Xuân Diệu không bao giờ bỏ cuộc, vẫn cứ bám chặt vào cuộc đời. Trong tâm thế sống “Chẳng bao giờ chán nản”, Xuân Diệu đã có giải pháp tích cực khi ước muốn níu giữ mùa xuân không thành. Sau lời hối thúc, giục giã phải sống mau, sống vội, Xuân Diệu say sưa cụ thể hóa lẽ sống vội vàng bằng lẽ sống thiết thực. Với thi sĩ, vội vàng không đơn thuần chỉ là sống gấp sống vội mà còn là sống với cường độ cao nhất: “Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”:
Mở đầu khúc thơ cuối là câu thơ ba chữ được tách riêng ra đặt chính giữa khổ thơ. Câu thơ làm nổi bật lên hình ảnh một cái tôi ham hố đang dang rộng cánh tay ôm hết, ôm khắp, ôm trọn tất cả sự sống mơn mởn non tơ đang bày ra trước mắt. Điệp ngữ “ta muốn” còn lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc ở những câu tiếp theo. Khát khao tận hưởng cuộc sống non tơ đang trào dâng mãnh liệt ngày càng nồng nàn và cháy bỏng hơn trong trái tim yêu đời đến tham lam của Xuân Diệu. Đại từ nhân xưng “tôi” bất ngờ chuyển hóa thành “ta”. Trước sự sống rộng lớn bao la của vũ trụ, thi sĩ cần xưng ta chăng? Hay ở đây thi sĩ đang nói lên khát vọng của bao người, hối thúc, lay tỉnh bao người hãy sống mãnh liệt, hãy sống tận độ trong từng phút giây cho nên phải xưng “ta”?
Say đắm thiên nhiên, cảnh trời, Xuân Diệu muốn tận hưởng thiên nhiên và sự sống. Dĩ nhiên, với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên và sự sống mà Xuân Diệu khát khao phải là thiên nhiên giữa thời tươi, phải là sự sống mới bắt đầu mơn mởn, phải là xuân hồng căng mọng, quyến rũ. Điều ấy có nghĩa là Xuân Diệu tham lam, ham hố tận hưởng tất cả những gì ngon nhất, đẹp nhất của sự sống. Nàng xuân mà Xuân Diệu đắm đuối hết sức thanh tân quyến rũ, rạo rực xuân sắc, đắm đuối xuân tình. Đến với thiên nhiên, đến với mùa xuân như đến với người tình tuyệt vời của mình, thi sĩ tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến lần lượt xuất hiện trong các dòng thơ: “ôm”, “ riết”, “say”, “thâu”, “cắn” là biểu hiện của tình yêu ngày càng say đắm mãnh liệt. Ôm chọn khắp, riết thật chặt, say sưa mê đắm và đỉnh điểm là cắn. Xuân Diệu đã tận hưởng thiên nhiên như tận hưởng ái tính. Hình ảnh “thâu trong một cái hôn nhiều” rất Tây. Đi liền đó là câu thơ thừa thãi liên từ “và”: “và non nước, và cây, và cỏ rạng”. Chính sự lặp lại có vẻ như thừa thãi ấy lại là một sáng tạo rất hiện đại của Xuân Diệu. Sự lặp lại liên tiếp liên từ “và” trong một dòng thơ đã truyền đến người đọc một cảm xúc hăm hở cuồng nhiệt của một gã suy tình trước tình nhân đắm đuối.
Xuân Diệu tận hưởng sự sống mơn mởn như tận hưởng ái tình và phải đạt đến độ no nê, đã đầy, chênh choáng. Nghĩa là phải thỏa thuê, ngây ngất, mê đi, lịm đi:
Xuân Diệu hiện ra đúng là một gã si tình chếnh choáng men say. Hàng loạt điệp từ “cho” liên tiếp lặp lại dồn đầy cảm xúc yêu đương cuồng nhiệt, mãnh liệt đến vô biên, tuyệt đích. Lời yêu cháy bỏng không thể kìm nén trong lòng, thì thầm trong trái tim mà vang lên thành lời đối thoại dõng dạc, trực tiếp: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đọc câu thơ, ta tưởng nhu thi sĩ đang muốn hét lo lên để cả đất trời, vũ trụ hiểu được niềm yêu cuồng nhiệt của mình. Ôm, riết, say, thâu chưa đủ, no nê, đã đầy, chếnh choáng vẫn chưa thỏa mà phải cắn vào xuân hồng, phải tận hưởng bằng cả tâm hồn, bằng cả trái tim đắp đuối, ham hố mới thỏa niềm khát khao. Ở đây, dường như có để biểu đạt niềm yêu đời cuồng nhiệt vô biên của mình, Xuân Diệu đã dùng đến yếu tố phi lí, phi hiện thực. Cũng chính vì thế mà câu thơ: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” trở thành một trong những vần thơ độc đáo, táo bạo nhất trong thơ hiện đại. Cùng với “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, Xuân Diệu đã làm cả một cuộc cách mạng lớn trong thi ca để trở thành nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.
“Với những nguồn cảm hứng mới, yêu đương và tuổi xuân, dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời, thấm thía”. Và khúc thơ cuối trong “Vội vàng” là một trong những khúc thơ tiêu biểu trong giọng thơ yêu đời nhát. Đọc đoạn thơ, ta như nghe thấy giọng nói, hơi thở, nhịp đập sôi nổi bồng bột trong trái tim thi sĩ. Qua bài thơ “Vội vàng”, ta thấy được phần nào cái nhịp sống vội vàng, niềm say mê cuộc đời mãnh liệt của Xuân Diệu. Đồng thời, ta còn thấy được một thông điệp vô cùng ý nghĩa, sâu sắc của Xuân Diệu: Hãy sống vội vàng, sống hết mình trong những khoảnh khắc tuyệt đẹp nhưng lại mong manh của tuổi thanh xuân bởi thời gian trôi đi sẽ kéo theo mùa xuân và tuổi trẻ, cả những ước mơ, khát vọng.
Bài làm mẫu 3Đến với Xuân Diệu, nhà thơ có cội nguồn hòa hợp giữa vùng gió Lào cát trắng cùng với sự cần cù của xứ Nghệ.
Cả đời Xuân Diệu là cả đời lao động nghệ thuật không lúc nào ngừng bút. Đối với ông sự sống không bao giờ chán nản. Là con người xứ Nghệ cần cù, kiên nhẫn, lao động và sáng tạo nghệ thuật. Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật trong nền văn học hiện tại. “Vội vàng” là một trong những tác phẩm thơ xuất xắc của ông. Bài thơ cũng là lời giục giã sống mãnh liệt, sống hết mình. Hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, thể hiện khát vọng sống của tác giả. Tiêu biểu là 10 câu cuối của đoạn thơ. Chính là lời giục giã mọi người và cũng chính là lời giục giã cho chính mình. Vì vậy mà tác giả đã nói:
Advertisement
Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ”, là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám. Ở phần trên của bài thơ, thi sĩ luận giải cho người đọc thấy được tạo hóa có sinh ra con người để mãi mãi hưởng lạc thú ở chốn trần gian này đâu. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại. Vì vậy thi nhân “giục giã” chúng ta phải “nhanh lên”, “vội vàng lên” để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”, khi mà xuân đang non, xuân chưa già:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”
Đoạn thơ mở đầu bằng ba chữ “Ta muốn ôm” như phơi bày ra hết sự ham hố và cuồng nhiệt của Xuân Diệu với cuộc sống trần thế: Trước đó nhà thơ xưng “tôi” với ước muốn táo bạo “tắt nắng, buộc gió” nhưng ở đoạn thơ cuối này cái tôi ấy đã hòa thành cái ta chung để tận hưởng hết những hương sắc của cuộc đời. Ngay liền đó là câu thơ thể hiện cái tươi non của “Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”. “Mơn mởn” là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi cảm sự vật, cây cối đang ở độ non mướt, tươi tốt đầy sức sống “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, Và đằng sau khao khát “ôm cả sự sống mơn mởn” ấy là những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã tràn đầy nỗi yêu:
Một đoạn thơ ngắn mà có tới bốn, năm từ “ta muốn” được lặp đi, lặp lại như nhịp điệu hối hả, như hơi thở gấp gáp của thi nhân. Chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đối rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tận cùng của niềm hạnh phúc được sống. Điệp ngữ “Ta muốn” như ý nghĩa của nó đã nói lên được cái ham muốn khát thèm đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ. Thi nhân như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn đắm say với “cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy “một cái hôn nhiều”. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”Để rồi, chàng như con ong bay đi hút nhụy đời cho đến say “chếnh choáng” hút cho đã cho đầy ánh sáng, “Cho no nê thanh sắc của thời tươi” mới lảo đảo bay đi.
Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng thụ đạt đến độ thỏa thuê, sung mãn, trọn vẹn. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, xuân hồng, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ.
Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt, mạnh bạo. Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn “ôm – sự sống” – “riết – mây đưa, gió lượn” – “say – cánh bướm, tình yêu” – “thâu – cái hôn nhiều”, để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đây chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ.
Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình có dáng, có hồn có sắc “Xuân hồng”. Mùa xuân như môi, như má của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương, hay như một quả chín ngọt thơm trong vườn “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình như không nén nỗi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu:
“Ta muốn cắn vào ngươi!”
Có lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, ham sống của “một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đây chưa từng có. Đến với “Vội Vàng” Xuân Diệu kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng. Xuân Diệu đã bộc lộ một cái tôi tràn đầy sự thèm khát được sống, được tận hưởng một cách cuồng nhiệt những thanh sắc của cuộc đời. Thi sĩ như muốn giang rộng cả đôi tay, cả lồng ngực của mình để đón nhận mùa xuân của tình yêu, của tuổi trẻ. Nỗi khát thèm ấy là xuất phát từ một quan niệm nhân sinh tiến bộ, tích cực của Xuân Diệu trước cuộc đời: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ – Em, em ơi, tình non đã già rồi” . Đoạn thơ đã giúp ta hình dung được tâm hồn Xuân Diệu, một cái tôi yêu đời, giàu xúc cảm, một nhân sinh quan tiến bộ về cuộc đời. Với những gì thể hiện ở trên, Xuân Diệu rất xứng đáng với danh hiệu: “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Bài làm mẫu 4Như người ta đã nói, Xuân Diệu chính là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Đặc biệt bài thơ Vội vàng, với khổ thơ cuối đã cho ta thấy rõ một tâm thế “rất mới” của Xuân Diệu:
Nếu như ở đầu bài thơ, Xuân Diệu đã nhấn mạnh mới ước mơ rất lạ, vượt quyền tạo hóa và gần như không thể có thực:
Gần như đó là một khát khao, một ước vọng quá sức mơ hồ và phi lí. Chẳng ai có thể vượt quyền tạo hóa được bằng cách đó, một sự thiết tha và mãnh liệt tột cùng của cái tôi thơ mới, cái tôi Xuân Diệu. Hơn ai hết, một người đam mê tình yêu, đam mê khát khao và sống trọn vẹn với đời. Vì vậy ở những khổ thơ cuối, Xuân Diệu không thể thực hiện được những khát khao ước vọng như vậy. Nên Xuân Diệu đã thúc giục chúng ta, mỗi người hãy “vội vàng” nữa lên.
Câu đầu tiên là Xuân Diệu đang tự thúc giục chính mình. Muốn được sống được yêu, được cống hiến và không sống hoài sống phí. Điều duy nhất ta làm được là phải tăng tốc nhịp sống lên, sống vội vàng, cuống quýt lên, hãy cố gắng sống trọn vẹn từng cảm xúc, từng khoảnh khắc, nhiệt huyết với cuộc đời này hơn nữa.
Cuộc đời đẹp thế, “mơn mởn” là thế, vậy chẳng có nghĩa gì ta lại để nó trôi qua một cách uổng phí cả. Xuân Diệu thay xưng hô, tôi bằng ta, là đổi cách để giao cảm, nói với đời. Đó là thái độ của một chàng thanh niên như muốn đối thoại với cuộc đời này, đối diện với toàn bộ những sự sống, những khát khao mãnh liệt mà mình còn muốn thực hiện. Thật sự Xuân Diệu đã cho ta thấy rõ một cái tôi rạo rực say sưa, và yêu đời thắm thiết làm sao.
Xuân Diệu qua đó cũng sử dụng những động từ mạnh, cùng với việc mở rộng những giác quan để tận hưởng cuộc đời. Nếu phần đầu là ước ao được sống thì phần sau đây thực sự là một sự lí giải tại sao phải sống vội. Cuộc đời còn đẹp thế, những “cánh bướm” “tình yêu” và “cây, và cỏ rạng” thiên đường trong cuộc sống là đây chứ đâu.
Xuân Diệu là một nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới, vì thế tâm hồn ông luôn có những khao khát ham sống đến tột cùng, thể hiện một tâm hồn trẻ trung, năng động và nhiệt huyết với đời. Nếu muốn được giao cảm với đời nhiều hơn nữa, không còn cách gì khác ta phải tăng tốc độ và cường độ sống lên nhiều hơn nữa. Một cái tôi không những trẻ trung mà còn rất tích cực. Đó cũng là một trong những châm ngôn sống mà thế hệ trẻ cần học hỏi từ Xuân Diệu.
Xuân Diệu chính là đây, hồn thơ Xuân Diệu vì sao luôn được coi là trẻ trung nhất là đây. Cảm ơn Xuân Diệu đã dạy cho ta một cách sống ý nghĩa và tích cực. Cuộc đời ngắn ngủi, vì thế mỗi chúng ta hãy luôn vận động, nhiệt huyết tối đa với cuộc đời. Cảm ơn những lời thơ của Xuân Diệu, đó sẽ mãi là bài học muôn đời dành cho muôn thế hệ.
Xuân Diệu đã thực sự sống trong sự trẻ trung của mình, đây cũng là khổ thơ cuối cùng của bài thơ, khép lại cả một tràng cảm xúc về vội vàng. Nhờ đoạn thơ này, tác giả đã làm nổi bật lên vì sao và làm thế nào để ta được hưởng trọn vẹn thanh sắc cuộc sống. Bằng việc sử dụng những biện pháp nghệ thuật đắt giá, như điệp từ, điệp cấu trúc, liệt kê, các biện pháp tương giao đầy nghệ thuật. Khiến cho ta như cảm nhận rõ hơn một tư tưởng lớn, một trái tim không khi nào vơi cạn tình yêu với cuộc đời – là Xuân Diệu.
……….
Văn Mẫu Lớp 9: Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Sang Thu Của Hữu Thỉnh (Sơ Đồ Tư Duy) Dàn Ý &Amp; 7 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất
Đề bài: Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.
Sơ đồ tư duy Phân tích khổ đầu bài Sang thu Dàn ý phân tích khổ đầu bài Sang thua) Mở bài
Giới thiệu về tác giả Hữu Thỉnh: Hữu Thỉnh (1942) là một nhà thơ viết nhiều về con người và cuộc sống thiên nhiên.
Giới thiệu bài thơ Sang thu: Sang thu (1977) là một bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh viết về mùa thu, thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
Dẫn dắt vấn đề và trích dẫn khổ thơ đầu bài Sang thu: Khổ thơ đầu bài thơ đã để lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khắc giao mùa.
b) Thân bài: Phân tích khổ đầu bài Sang thu
* Luận điểm 1: Thiên nhiên sang thu được cảm nhận từ những gì vô hình.
– “Hương ổi”: làn hương đặc biệt của mùa thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ.
* Luận điểm 2: Cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu.
– Tất cả các từ: “bỗng, phả, hình như” đều bộc lộ rõ tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng trước những phát hiện thú vị báo thu về:
“Hình như thu đã về”
+ “Hình như”: một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng.
* Nhận xét về đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ
Khả năng quan sát tinh tế
Ngòi bút miêu tả với những nét vẽ gợi tả độc đáo
Thủ pháp nhân hoá
c) Kết bài
Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ thơ đầu Sang thu.
Cảm nhận của em về khổ thơ.
Phân tích khổ đầu Sang thuHữu Thỉnh được biết đến là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông chính là bài thơ Sang thu. Đoạn thơ mở đầu là những dấu hiệu thông báo mùa thu đã đến bên tác giả.
Bốn câu thơ đã đem đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên, những tín hiệu của mùa thu với những nét phác họa tài hoa đầy gợi cảm. Mùa thu đến không hề báo trước khiến nhà thơ giật mình vì “bỗng” ngửi thấy hương ổi. Động từ “bỗng” thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của người thi sĩ trước sự chuyển mình đột ngột của thiên nhiên, của tiết trời. Ổi phải chín đến nhường nào, thơm ngon đến nhường nào hương thơm của nó mới đủ mạnh để tạo ra một sự lan tỏa như vậy trong không gian. Làn sương như thấp hơn, trùng xuống, lững lờ trôi thật chậm như muốn cảm nhận được trọn vẹn không khí mùa thu mát mẻ, dễ chịu. Lạc giữa làn mây ấy, nhà thơ không nén nổi niềm xúc động, mơ màng thốt lên rằng: “Hình như thu đã về”. “Hình như” diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng băn khoăn, không chắc chắc trước cảnh đẹp thiên nhiên này.
Bốn câu thơ ngắn gọn, hàm súc nhưng đầy sự tinh tế, tài hoa trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật của tác giả. Qua đoạn thơ, người đọc cảm nhận trọn vẹn hơn vẻ đẹp của buổi chớm thu ở một làng quê thanh bình cũng như thêm yêu vẻ đẹp giản dị, thân thuộc của quê hương, đất nước.
Phân tích khổ 1 bài thơ Sang thuLà người con của quê hương Vĩnh Phúc, Hữu Thỉnh đã ghi tạc vào lòng người những vần thơ thiết tha, rung động tâm hồn bao người với đề tài mùa thu quen thuộc. Tuy nhiên, giữa ông và các nhà thơ khác vẫn có những nét riêng biệt. Đó là cách cảm nhận đầy tinh tế về sự chuyển mình của đất trời khi bước sang thu qua bài thơ “Sang thu” được sáng tác năm 1977. Dòng cảm xúc đầu tiên được tái hiện sắc nét qua khổ thơ thứ nhất:
Đây có thể được coi là khổ thơ hay và để lại dấu ấn sâu đậm cho mỗi ai khi đọc “Sang thu”. Đất trời chuyển mình, mỗi năm có bốn mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào cũng đã từng một lần được đặt chân đến mảnh đất của thơ ca Việt Nam. Ấy vậy mà thi nhân vẫn luôn dành sự ưu ái cho mùa thu dịu nhẹ. Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã từng khẳng định tên tuổi của mình với ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu điếu” và “Thu ẩm”. Hay ông hoàng thơ tình – Xuân Diệu cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình qua “Đây mùa thu tới” và còn cả Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu”. Mỗi sáng tác lại là một cảm nhận, một cách nhìn riêng biệt. Với Hữu Thỉnh mùa thu của ông được hé mở cùng những nét vẽ đậm sắc màu của vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Hương ổi có lẽ đã quá thân quen với những người con của làng quê Việt Nam. Thân quen là thế nhưng rồi vô tình người ta lại vô tình lãng quên nó để rồi trong khoảnh khắc giao mùa mới bất giác nhận ra. “Bỗng” rồi “phả”, hai động từ được đặt trực tiếp ở đầu câu như một sự kết hợp hoàn hảo, cùng nhau viết lên tâm trạng của nhà thơ. Phải chăng đó là sự ngỡ ngàng, bối rối khi bất chợt nhận ra tín hiệu của mùa thu? Động từ “phả” dường như đang tập trung làm bật lên hương thơm nồng nàn từ vườn ổi chín lan tỏa rộng khắp, hòa cùng gió se – gió hơi lạnh và khô, chạm tới khứu giác của nhà thơ. Ông như đang mở rộng lòng mình để kịp đón nhận và tận hưởng hết sự bắt đầu nhẹ nhàng của một mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ. Không chỉ có hương ổi hay gió thu mà trong dòng cảm nhận về những tín hiệu đầu tiên còn là sương thu:
“Sương chùng chình qua ngõ”
Câu thơ như khoác trên mình một diện mạo mới qua nghệ thuật nhân hóa “chùng chình”. Đọc đến đây ta mới cảm nhận hết được cái đẹp của tiết trời chớm thu. Sương vẫn chuyển động chậm rãi, từ từ như cô gái còn rụt rè, e ngại điều gì đó. Đường làng được bao quanh bởi một màn sương mờ ảo, cảnh vật yên tĩnh không thấy ở đâu bất kì một “vết nứt” nào. Từ đó gợi mở về một làng quê trong cuộc sống bình yên, tĩnh lặng, cảnh vật thì lung linh, huyền ảo và cũng thật dân dã.
Có hương ổi, có gió se, có sương thế nhưng tất cả đang trong sự vận động vô cùng chậm rãi. Mọi thứ cứ mơ hồ như vậy khiến lòng người cũng dấy lên một chút gì đó mơ hồ, lưỡng lự:
“Hình như thu đã về”
Dường như câu thơ lại là một câu hỏi tác giả tự đặt ra để chất vấn lòng mình: thu đã về hay chưa? Thu về từ bao giờ, từ đâu? Ông đang rơi vào lòng hoài nghi. Đó chính là một chút bối rối đậm chất thi sĩ khi cảm nhận thời khắc đất trời chuyển mình sang thu.
Khác với Hữu Thỉnh, Xuân Diệu lại có cái nhìn rất mạnh mẽ trước sự khởi đầu của mùa thu: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”. Tuy không mạnh mẽ như Xuân Diệu nhưng cái do dự, ngập ngừng của Hữu Thỉnh lại rất hay bởi cảm nhận của ông là cảm nhận thâm trầm và kín đáo vô cùng. Từ cảm nhận tinh tế ấy, phải chăng hương ổi, gió se, sương thu đã trở thành cái riêng biệt của mùa thu? Tuy đã cảm được nhưng vẫn không hề chắc chắn và có lẽ thu đang đến rồi nhưng chưa hoàn toàn rõ nét.
Khổ thơ với kết cấu ngắn gọn chỉ với hai mươi chữ nhưng đã để lại sâu đậm trong lòng bạn đọc biết bao rung cảm về một hồn quê nơi đồng bằng Bắc Bộ đã làm ấm lòng người. Qua đây còn là một phát hiện về những tín hiệu tiêu biểu và đặc trưng khi mới chớm mùa thu cùng tâm trạng ngỡ ngàng bối rối rất thi sĩ của nhà thơ.
Phân tích khổ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 1Năm tháng trôi qua, nhiều thứ đã trở thành dĩ vãng tuy nhiên những giá trị thì vẫn trường tồn cùng thời gian và gây ấn tượng sâu sắc với thế hệ đi sau. Có thể lúc bấy giờ có rất nhiều tác phẩm văn học tiêu biểu, nhưng mãi sau này chúng ta vẫn còn ấn tượng và yêu quý nhà thơ Hữu Thỉnh cùng bức tranh mùa thu xinh đẹp với tình yêu tha thiết của tác giả dành cho mùa thu thông qua bài thơ Sang thu. Mở đầu bài thơ là những dấu hiệu mùa thu đã về:
Mùa thu ở đồng quê gắn liền với hương ổi, một đặc trưng không thể thiếu. Mùa thu đến không hề báo trước khiến nhà thơ giật mình vì “bỗng” ngửi thấy hương ổi. Hương ổi không thoảng trong gió mà phả vào gió – một động từ mạnh, một cách dùng từ mới mẻ trong thơ của Hữu Thỉnh mang đến cho bạn đọc một cách nhìn khác về mùa thu đến. Bên cạnh hương ổi là ngọn gió, gió không mang hơi nóng như mùa hè mà se se mát lạnh làm lòng người dịu êm. Làn sương như thấp hơn, trùng xuống, lững lờ trôi thật chậm như muốn cảm nhận được trọn vẹn không khí mùa thu. Đây vốn là là những sự vật gần gũi, thân thuộc với mùa thu ở miền quê thanh bình, tĩnh lặng, bình yên nhưng dưới ngòi bút tài tình của tác giả, nó trở nên đẹp đẽ, thanh cao và đáng yêu lạ thường.
Bức tranh mùa thu được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa qua hình ảnh, cách nhìn, cảm nhận và cả tận hưởng: hương ổi, gió, sương,… đây là sự kết hợp của nhiều giác quan khác nhau mang qua bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm cho bạn đọc hình dung ra những đặc trưng của mùa thu và bức tranh mùa thu nơi quê nhà thanh bình như được hiện ra rõ nét hơn, đẹp đẽ hơn.
Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ mang đến cho bạn đọc một bức tranh mùa thu bình dị mà còn góp phần làm phong phú kho tàng văn học Việt Nam. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.
Phân tích khổ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 2“Sang thu” là một bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh. Khổ thơ mở đầu bài thơ đã để lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc:
Từ “bỗng” đã thể hiện được sự ngạc nhiên, bất ngờ của tác giả. Chữ “bỗng” được tác giả đặt ở đầu bài thơ như để đánh động mọi giác quan, mọi cảm nhận của độc giả để nhận ra sự chuyển mình của trời đất. Và vào khoảnh khắc ấy hương ổi vừa ngọt ngào vừa nồng nàn đã đánh thức giác quan của thi nhân. Ổi phải chín đến nhường nào, thơm ngon đến nhường nào thì mùi hương của nó mới đủ “phả vào trong gió se”.
Mùi hương ấy đã lan tỏa trong cái rét nhè nhẹ của đất trời, tạo nên một hương ổi ngọt ngào, thanh mát. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. Chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.
Phân tích khổ thơ đầu tiên trong bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh tiếp nối những tín hiệu của mùa thu là hình ảnh: “sương chùng chình qua ngõ”. Sương trong câu thơ của Hữu Thỉnh được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động chậm rãi. Từ láy “chùng chình” khiến người đọc liên tưởng đến sự thong thả, yên bình trong cái tĩnh lặng của thiên nhiên. Hình ảnh sương chùng chình qua ngõ cùng với hương ổi phả vào trong gió se là những hình ảnh mùa thu ở thôn quê êm ả thanh bình.
Như vậy, thu đến đã được cảm nhận bằng cả khứu giác và thị giác. Câu hỏi có vẻ dè dặt: “Hình như thu đã về” nhưng thật ra là một lời thông báo rất nhẹ nhàng rằng thu đã đến với tất cả chúng ta. Câu thơ không phải là một lời khẳng định hay một tiếng reo vui mà nó mang chút gì đó thâm trầm, kín đáo của người dân thôn quê.
Chỉ bốn câu thơ nhưng lại để trong lòng người đọc biết bao rung động. Bốn câu thơ còn chứa đựng trong đó là bức tranh thiên nhiên thôn quê khi thu về. Điều này đã khiến đoạn thơ càng trở nên gần gũi, thân thuộc.
Bằng nét vẽ gợi tả, Hữu Thỉnh đã giúp người đọc cảm nhận được sự chuyển mình của mùa thu. Đồng thời qua đây người đọc cũng thấy được khả năng quan sát tinh tế, ngòi bút miêu tả độc đáo của tác giả. Chính điều đó đã góp phần làm nên thành công và tạo chỗ đứng trong lòng độc giả.
Phân tích khổ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 3Bốn mùa trong thiên nhiên đều mang trong nó những nét đẹp quyến rũ rất riêng những có lẽ mùa thu dễ đem lại trong lòng nhiều dư vị, cảm xúc nhất và trở thành nguồn cảm hứng bất tận để người nghệ sĩ chắp bút, cất lên tiếng lòng trước sự kỳ diệu đầy quyến rũ của thiên nhiên. Cái lạnh đầu mùa, những chuyển động tinh tế của thiên nhiên qua từng ngọn cây, kẽ lá đã đi vào những trang thơ với tất cả những gì tinh tế nhất, Và vẻ đẹp ấy đã được nhà thơ Hữu Thỉnh bắt gặp, viết nên những vần thơ thu bâng khuâng, xao xuyến lòng người. Và nó được thể hiện rõ nhất qua khổ đầu của bài thơ “Sang thu”.
Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, ông sinh ra ở mảnh đất Vĩnh Phúc. Thế giới nghệ thuật trong thơ ông mang nhiều dấu ấn đậm nét. Đó là thành quả một đời tích lũy của tư duy nghệ thuật mạnh mẽ, hiệu quả. Dọc con đường thơ, Hữu Thỉnh đã nỗ lực tìm kiếm không ngừng, đổi mới sáng tạo từ truyền thống sang hiện đại. Và “Sang thu” là một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất tinh thần ấy của ông. Năm 1977, “Sang thu” ra đời, nằm trong tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố” (1991). “Sang thu” là một bức thông điệp lúc giao mùa. Mùa hạ dần qua, mùa thu tới, khoảnh khắc ấy được diễn tả bằng sự rung cảm tinh tế, sự trải nghiệm sâu sắc của nhà thơ.
Trong thơ ca, nhiều nhà thơ đã dùng những hình ảnh biểu tượng để diễn tả mùa thu đang gần kề. Với Xuân Diệu đó sắc “mơ phai” của lá dệt trên muôn cây:
(Đây mùa thu tới)
Và với Hữu Thỉnh là vị “hương ổi” của vườn quê phả vào trong làn gió đặc trưng của mùa thu. Cái hương vị nồng nàn ấy luôn khiến con tim ta xao xuyến:
Advertisement
Hữu Thỉnh thể hiện sự tài tình khi sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện. Chữ “bỗng” bật ra trong sự bất ngờ đầy thú vị. Thu đã về với đất trời, với lòng người mà không hề báo trước. Với hai câu thơ với hàng loạt những hình ảnh mang tính biểu trưng, Hữu Thỉnh đã đưa đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc mùi vị của thiên nhiên. Đó là mùi thơm của hương ổi, cái lạnh nhè nhẹ chạm vào da thịt của gió se. Tại sao không phải là những hương vị khác như ngô đồng trong thơ Bích Khê, mùi hương cốm mới trong thơ Nguyễn Đình Thi. Với Hữu Thỉnh, mùa thu đến với ông qua mùi thơm của hương ổi, thứ hương thơm dân dã, bình dị của đồng quê. Nó không rõ ràng như hương ngô đồng,hay nồng nàn như mùi cốm mới mà nó là thứ hương thoảng qua. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, gợi những gì làng quê nhất. Gió se là làn gió nhè nhẹ lướt quá, mang theo một hơi lạnh. Huy động khứu giác để cảm nhận mùi thơm của hương ổi, xúc giác để cảm nhận cái lạnh của gió se, mùa thu như lan tỏa khắp không gian nơi vườn thôn, ngõ xóm. Có lẽ rằng, phải yêu thiên nhiên, gắn bó với mảnh đất nơi miền quê lắm thì Hữu Thỉnh mới viết được những vần thơ nhưng vậy?
“Phả” vốn là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột, nó diễn tả cái tốc độ của gió, vừa diễn tả sự bất chợt trong cảm nhận. Một cái gì đó thật nhẹ nhàng, êm ái. Nó gợi hình dung về hương ổi chín, về sự vận động của gió đưa hương. Hương ổi thơm như hòa quyện lại, luồn vào trong gió se. Một câu thơ ngắn mà chứa cả gió cả hương Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Những đặc trưng thu ấy chỉ tìm được ở những vùng quê miền Bắc, bởi vậy chỉ qua hai câu thơ, ta đã thấy tình cảm gắn bó với quê hương của nhà thơ. Mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh không chỉ là hương ổi, là gió se mà còn là hình ảnh những màn sương sớm:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Hai chữ “hình như” gợi ra một cảm giác đầy mơ hồ, mong manh giống như một sự tự vấn lòng mình. Thế nhưng thực ra là một lời thông báo – một thông báo rất nhẹ nhàng, ý vị. Mùa thu giờ đây như xâm chiếm cả không gian, thời gian. Bằng cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của một nhà thơ, chỉ với một khổ thơ với hai mươi tiếng đã để lại cho người đọc biết bao rung động về khoảnh khắc giao mùa của đất trời thật ngỡ ngàng, gợi cảm nhưng cũng thật ấm áp.
Thu trong thơ Hữu Thỉnh sâu lắng và nhẹ nhàng, nó vương vấn, thoảng qua mãi trong tâm hồn người đọc về một tiết thu ở đồng quê Bắc Bộ Có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Với việc sử dụng ngôn ngữ tinh tế cùng với các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, “Sang thu” đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, những rung động mang mác, bâng khuâng trong thơ Hữu Thỉnh khi khắc họa thành công khoảnh khắc giao mùa của đất trời và những rung động của lòng người. Hơn cả cái khoảnh khắc giao mùa rung động lòng người ấy, là cả một tiếng lòng của một con người thiết tha yêu quê hương, luôn hướng về những gì thân thuộc, gần gũi nhất, một tiếng thu nồng nàn thiết tha.
Phân tích khổ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 4Mùa thu một trong bốn mùa trong năm, đã đi vào rất nhiều tác phẩm thi ca nổi tiếng. Được các thi nhân ưu ái đặt cho biệt danh nàng thu. Trong đó có nhà thơ Hữu Thỉnh. Bằng cái nhìn mộc mạc chân thực của mình Hữu Thỉnh đã tạo nên một Sang thu đầy bất ngờ và quyến rũ. Trong đó có khổ thơ đầu tiên:
Mùa thu được biết đến là một trong những mùa đẹp nhất trong năm. Nó không có cái nắng oi ả của mùa hẹ, cái ẩm ướt của mùa đông hay đỏng đảnh của mùa xuân, mùa thu bình dị và thân quen đến lạ. Có rất nhiều thi nhân đã tìm đến mùa thu như một điểm gặp mặt tuy nhiên hay nhất và gần gũi nhất thì không thể không nhắc đến Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh.
Từ “Bỗng” mở ra ở đầu bài thơ như một cái giật mình đầy bất ngờ. Sở dĩ tác giả đặt từ bỗng ngay đầu bài là có dụng ý nghệ thuật khác. Trong cái chuyển mình của trời đất mọi giác quan đều phải nghiêng mình đánh động. Đó là mùi hương ổi nhẹ nhàng và tinh tế. Mùa thu đến không phải đến từ không gian mà bắt đầu từ khứu giác. Không biết hương ổi đã ủ chín từ bao giờ lặng lẽ tỏa hương tự bao giờ nhưng vào khoảnh khắc này nó đã vươn mình đánh thức sự chuyển mình của không gian và giác quan của thi nhân. Hương thơm ấy mạnh đến nỗi nó trở nên ngào ngạt phả vào gió se. Thứ hương thơm đó quyến rũ, nồng nàn đến nhường nào mới đủ sức lan tỏa trong một khoảng không gian rộng lớn đến vậy.
Gió se ở đây là gió se lạnh heo may mỗi dịp đầu thu đến nó khiến gai gai nơi cánh tay. Nếu như nhà thơ Xuân Diệu đã từng có những câu từ mạnh mẽ để miêu tả luồng gió se “Những luồng run rẩy rung rinh lá”. Thì gió thu trong thơ Hữu Thỉnh lại rất đỗi êm ái dịu dàng. Để miêu tả về những làn sương thu nhà thơ cũng dùng những câu chữ vô cùng tinh tế:
Từ láy “chùng chình” mang nét gợi hình đầy cảm xúc. Chùng chình ở đây nghĩa là chậm chạp, nhà thơ đã khéo léo nhân hóa hình ảnh sương như những đứa trẻ tinh nghịch náu mình trong ngõ, chùng chình chẳng muốn lộ diện.
Bằng ấy thứ cảm nhận đã mang nhà thơ đến với một nhận định mơ hồ “hình như thu đã về”. Từ hình như là một câu khẳng định mơ hồ không dám chắc. Nhà thơ cũng cảm thấy giật mình trước sự thay đổi ngỡ ngàng của thời gian và không gian. Giữa cái khoảnh khắc giao hòa chuyển mình vĩ đại ấy thi nhân vẫn còn đang lâng lâng huyền ảo.
Có thể nói khổ thơ đầu tiên của bài Sang thu là một cảm nhận vô cùng tinh tế của nhà thơ về sự chuyển biến của đất trời. Khổ thơ đã tạo nên một điểm nhấn một nét chấm phá độc đáo trong những vần thơ diễn tả về thu tinh tế và đẹp nhất.
Phân tích khổ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 5Hữu Thỉnh là một nhà thơ viết nhiều và hay viết nhiều về con người và cuộc sống thiên nhiên. “Sang thu” là một tác phẩm tiêu biểu viết về mùa thu của ông. Bài thơ không chỉ có hình ảnh thiên nhiên sang thu mà còn có bóng dáng con người trước mùa thu cuộc đời.
Sự biến đổi đất trời lúc sang thu hoặc tín hiệu sang thu (làn gió se) mang theo “hương ổi” nhà thơ ngỡ ngàng bâng khuâng xao xuyến trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa (“bỗng”, “hình như”).
Những biến chuyển trong không gian lúc sang thu được nhà thơ cảm nhận bằng nhiều giác quan và sự rung động tinh tế. “Hương ổi” lan vào không gian phả vào gió se, động từ “phả” là nét đặc sắc của hương ổi, mùi hương ổi lan tỏa vào trong gió với một không gian rộng. “Sương đầu thu” giăng mắc nhẹ nhàng chuyển động chầm chậm nơi ngõ xóm, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa rất đặc sắc qua động từ “chùng chình”. “Dòng sông” trôi thanh thản gợi vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên; những cánh chim bắt đầu vội vã, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật đối và các từ láy đã mở ra một không gian cao rộng, khoáng đãng.
Cảm giác giao mùa được diễn tả thú vị qua đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” đây là hình ảnh sáng tạo, độc đáo và tạo nét riêng cho tác phẩm. Có lẽ mùa thu đang đến ngõ xóm báo hiệu mùa thu đang đến rất gần. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những cơn mưa cũng vơi bớt, tiếng sấm cũng không còn bất ngờ. Tác giả sử dụng từ ngữ vô cùng tinh tế qua từ “vẫn còn bao nhiêu”, “vơi dần”, “cũng bớt”. Hình ảnh sương thu chùng chình nơi ngõ xóm gợi liên tưởng con người bâng khuâng xao xuyến bịn rịn trước mùa thu của cuộc đời.
Lúc sang thu bớt đi tiếng sấm bất ngờ. Cũng có thể hiểu hình ảnh hàng cây đứng tuổi không bị bất ngờ, giật mình bởi tiếng sấm nữa. Với hình ảnh có giá trị tả thực về hình tượng thiên nhiên này nhà thơ muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì cũng vững vàng hơn trước những vang động của cuộc đời.
Với cách sử dụng từ ngữ độc đáo, cảm nhận tinh tế sâu sắc, hình ảnh thơ đẹp, ngôn ngữ tinh tế giọng thơ êm đềm. Sang thu thể hiện cảm nhận tinh tế của những chuyển biến nhẹ nhàng của khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu của miền Bắc. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên gắn bó với quê hương của tác giả và triết lí về con người và cuộc đời.
Sang thu là một bài thơ đặc sắc viết về thời điểm chuyển mùa từ cuối hạ sang đầu thu. Bài thơ vừa thể hiện tài năng sự cảm nhận tinh tế của tình yêu đồng thời thể hiện tình cảm của nhà thơ với thiên nhiên mùa thu. Đọc bài thơ chúng ta càng yêu hơn mùa thu thiết tha nồng hậu của quê nhà.
Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Bài Thơ Tương Tư Của Nguyễn Bính (Dàn Ý + 5 Mẫu) Những Bài Văn Hay Lớp 11
Dàn ý phân tích bài thơ Tương tưI. Mở bài: giới thiệu bài thơ Tương tư – Nguyễn bính
II. Thân bài: Phân tích bài thơ tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính
1. 4 câu thơ đầu:
+ Nỗi tương tư của nhà thơ
+ Hình ảnh đôi trai gái mang dáng vóc mộc mạc, giản dị
+ Sự nhớ thương da diết của chàng trai, nỗi nhớ thương của một người dành cho một người
2. Tâm trạng của người tương tư:
+ Có sự trách móc nhẹ nhàng của chàng trai
+ Nhận thấy được tình cảm nồng thắm của chàng trai dành cho cô gái
+ Nỗi buồn da diết của người tương tư được thể hiện rất rõ ràng
+ Sự thay đổi cách xưng hô
+ Thể hiện nên sự độc đáo, chân thật, mộc mạc trong thơ Nguyễn Bình
III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bình
Phân tích Tương tư – Mẫu 1Với phong cách thơ bình dị, nhẹ nhàng, chân chất; Nguyễn Bính được xem là nhà thơ của đồng nội. Thơ Nguyễn Bính đi sâu vào tâm hồn người đọc bằng chất “quê” đặc biệt, chất “quê” của nông thôn Việt Nam. Tình yêu trong thơ ông rất đỗi ngọt ngào, sâu lắng và dìu dặt như chính con người ông. Bài thơ “Tương tư” rút trong tập “Lỡ bước sang ngang” giãi bày tâm sự thầm kín của một người đang yêu, đang thương nhớ, đang khắc khoải và mong chờ đau đáu.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bính đặt tên bài thơ là “Tương tư”, đây là cảm giác nhớ thương của một kẻ đang yêu, nói đúng hơn là của kẻ yêu đơn phương, đang mong chờ được đáp lại. Mối tình ấy được ấp ủ, được dồn nén thành lời qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhất:
Một không gian thôn quê hiện lên thật bình dị, đơn sơ, và yên bình đến lạ. Thủ pháp nhân hóa được sử dụng rất tài tình, tinh tế. Tác giả mượn “thôn Đoài” và “thôn Đông” để nói lên nỗi nhớ từ tận sâu đáy lòng của mình. Chắc hẳn rằng người mà tác giả đang tương tư ở thôn Đông, còn tác giả lại ở thôn Đoài. Mối tình ấy ẩn mình trong sự thanh mát và bình dị của đồng quê.
Tinh tế và sâu sắc hơn nữa tác giả đã mượn chuyện nắng của của giời để trải lòng mình. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như quy luật của đất trời.
Chỉ với 4 câu thơ ấy, đã khiến người đọc thích thú muốn tìm hiểu về mối tương tư của anh chàng thôn Đoài và cô nàng thôn Đông này. Tuy nhiên đến những câu thơ tiếp theo, dường như lại là lời trách móc nhẹ nhàng và rất chừng mừng. Trách cô gái hững hờ, trách người ta sao lại vờ như không biết gì như thế:
Những câu hỏi dồn dập, nối tiếp nhau tạo nên sự bối rối, lo lắng và chồng chất nỗi niềm trong lòng chàng trai đang yêu. Tác giả đã mượn lối nói dân gian của ca dao, dân ca để hỏi dò cô gái sao lại hững hờ như vậy. Giọng điệu của câu thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển, tha thiết như truyền tải thông điệp đến cho cô gái.
Từ “cớ sao” như một lời trách nhưng lại rất tế nhị, đáng yêu. Mối tương tư của chàng trai trằn trọc suốt bao nhiêu đêm, nhưng chẳng biết ngỏ cùng ai, rồi cũng chẳng ai thấu cho. Bởi vậy mà chàng trai chỉ chờ đợi “bến gặp đò” để mình có thể gặp nàng. Nỗi băn khoăn trong lòng chàng trai cứ chồng chất, cứ dai dẳng và đợi chờ. Và rồi chàng trai lại tự hỏi:
Nhịp điệu của thơ lục bát uyển chuyển, nhẹ nhàng, tha thiết. Tác giả mượn “giàn trầu” và “hàng cau” để diễn tả nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi diễn tả nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc ấy. Ở 4 câu thơ này, người đọc nhận ra có sự thay đổi giữa cách xưng hô, tác giả đã mạnh dạn chuyển “tôi-nàng” thành “anh-em” rất táo bạo. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình này đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái.
Cái “tôi” trữ tình của Nguyễn Bính đã được đẩy cao lên, dám bày tỏ, dám yêu. Nhưng tình cảm đó không táo bạo mà ngược lại rất chân thành, mãnh liệt, đồng thời lại rất tế nhị.
Bằng những vần thơ gần gũi, chân thành, đậm hương vị đồng quê, tác giả đã gieo vào lòng người đọc những tình cảm nhẹ nhàng, tha thiết nhất của những người đang yêu. Bài thơ như một nốt nhạc trong lành và yên bình nhất.
Phân tích bài thơ Tương tư – Mẫu 2Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trong cuộc đời, tương tư lại thường là nỗi nhớ đơn phương. Người này nhớ, mà đôi khi cứ ngỡ người kia vô tình lắm, chẳng hề biết, chẳng muốn biết rằng mình đang khổ sở vì tương tư. Thực tình, nhớ là hiện thân của yêu : một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu ; một tâm hồn ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim đã ngừng yêu. Cho nên có kẻ nào yêu mà chẳng từng tương tư. Nguyễn Bính cũng thế ! Chàng trai chân quê này tương tư và đã trải đến tận cùng những cung bậc tương tư, nói khác đi, là đã bị mọi cung bậc của tương tư giày vò đến khổ sở.
Yêu nhau, mà xa nhau, tất sẽ nảy sinh nhung nhớ. Nhớ nhung, thực chất, là khát khao được có nhau, gần nhau. Xa cách về không gian và thời gian chính là duyên cớ để tương tư. Vì thế mà trong bản chất tình cảm, tương tư là một khao khát, một nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian bằng tinh thần. Không gian, thời gian vô cớ trở thành kẻ thù của những tình nhân bị xa cách. Và đây là những kẻ thù nghìn lần đáng ghét. Bởi trong nỗi tương tư, khoảng cách dù là ngắn cũng trở thành diệu vợi, nghìn trùng ; một khoảnh khắc cũng thành đằng đẵng, thăm thẳm. Đôi khi chỉ tấc gang cũng thành vực thẳm. Thậm chí, với một tình nhân giàu dự cảm thì dầu chưa xảy ra xa cách, đã khắc khoải tương tư rồi :
(Xuân Quỳnh)
Trong bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã nói lên nỗi tương tư nghìn đời của những lứa đôi. Ngay những lời mở đầu đã vẽ ra một nỗi tương tư chan chứa cả cảnh sắc thôn làng :
Chỉ vì có một chàng trai thôn Đoài đang gửi lòng say cô gái thôn Đông mà cuối cùng đã thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Cách nói bóng gió tạo hiệu quả không ngờ là hai miền không gian đang nhớ nhau. Điều này đâu phải vô cớ. Khi người ta tương tư, cảnh vật xung quanh cũng bị cuốn vào nỗi tương tư, không gian bao quanh cũng ngập tràn nhung nhớ. Người ta có nhìn bằng con mắt khách quan nữa đâu ! Cảnh vật nhuốm màu tương tư cả rồi. Câu thứ hai đặc Nguyễn Bính ! Ấy là giọng kể lể. Một câu thơ được viết toàn bằng số từ ! Không gian tương tư thật rõ. Câu bát có xu hướng kéo dài, nó càng dài hơn bởi giọng kể lể và chất đầy những số từ thậm xưng theo lối thành ngữ. Mỗi người đứng ở một đầu câu thơ, thăm thẳm, vời vợi. Giữa họ là một khoảng không diệu vợi. Nỗi tương tư giăng mắc một nhịp cầu “chín nhớ, mười mong”, khởi lên từ đầu này và chấp chới, và mơ mòng tới đầu kia. Kế đó là một sự lí giải :
So sánh mình với giời, ngông là thế mà thấy cũng chấp nhận được. Bởi cả hai có cùng một căn bệnh. Tôi và Giời hoá ra là hai kẻ đồng bệnh. Thế mà chưa hết đâu, cái tôi này còn toan tính hạ thấp trong so sánh đó nữa. “Gió mưa là bệnh của giời”, thì bệnh đó là một thứ tật, một thói hư, giời giở chứng ra – một thứ bệnh nội sinh có sẵn ! Còn “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” thì là căn bệnh mắc phải do “ngoại nhập”. Từ ngày yêu nàng, tôi mới mắc bệnh này. Coi tương tư là một thứ “bệnh”, mới kể lể được những khổ sở của cái tôi mang bệnh. Mà bệnh này đã mắc thì… phi em vô phương cứu chữa. Trong câu thơ, thấy có cái giọng chấp nhận một thực tế, một quy luật tất yếu không cưỡng lại nổi. Cái tôi hiện ra vừa như một tình nhân đắm đuối vừa như một nạn nhân tự nguyện rước bệnh, rước khổ sở vào thân. Có phải khi yêu, lời chân thành nào cũng hoá khôn ngoan thế chăng ? Có phải thế là sự khôn ngoan dễ thương ?
Hình như tương tư thường bắt đầu bằng kể lể, giãi bày, và rồi chẳng mấy ai chịu dừng lại ở đó. Sẽ còn là trách móc, hờn giận, sẽ còn là giận dỗi đơn phương, khát khao đòi hỏi, cũng đơn phương. Nghĩa là bệnh tương tư sẽ mỗi ngày một thêm trầm trọng. Mà “kì” nhất là, cũng một không gian ấy thôi, nhưng khi đã kể lể nỗi khổ của mình – cho mình, thì nó bỗng dài ra vô tận, trái lại, đến khi trách móc, “kể tội đối phương” thì nó lại thu hẹp đến kiệt cùng :
Mở ra, “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”, tưởng chừng nghìn trùng cách trở. Đến đây, té ra sự cách trở đã hoàn toàn triệt tiêu : tuy hai thôn nhưng thực ra chỉ có một làng. Quái lạ thay là tâm lí tương tư ! Khoảng cách có vậy mà khéo co giãn, biến hoá làm sao !
Nhưng xem chừng, hay nhất vẫn là sự kể lể về thời gian:
Ngày trước, tả mối tương tư Kim – Kiều, Nguyễn Du cũng thấy cái nghịch lí trữ tình của thời gian:
Một ngày thôi mà ngỡ đã ba thu. Thế cũng đã quá ư trầm trọng ! Dẫu sao, đó vẫn là nỗi tương tư được nói bằng giọng người trần thuật, ngoài cuộc. Còn lời thơ Nguyễn Bính vẫn nguyên sự sốt ruột, khắc khoải của người trong cuộc, y như lời lẽ của người đang ngồi bóc lịch đếm từng ngày rề rà chậm chạp trôi qua một cách vô tình, thậm chí như cố tình trêu ngươi vậy ! “Ngày qua ngày lại qua ngày”, câu thơ dịp nhịp 3/3, chia thành hai vế, vế này là sự lặp lại của vế kia theo lối trùng diệp. Chữ “lại” chứa đựng một ngán ngẩm. Vừa hi vọng, vừa như thất vọng. Mỗi ngày mới đến nuôi lên một hi vọng, để đến cuối ngày, hi vọng tàn đi thành vô vọng. Tất cả gợi được nhịp vận hành lặp đi lặp lại rời rã của những ngày đợi chờ, mong mỏi mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng.
Câu thứ hai vẽ ra một người nóng lòng chờ đợi cùng cái cây (nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính thường bộc bạch tâm trạng cùng với một cái cây nào đó. Đây thì chẳng rõ là cây gì. Chỉ biết nó cũng nặng trĩu tương tư ! Hay đó là cây tương tư ?! ). Kẻ tương tư và cái cây ấy có một mối tương giao kì lạ. Thời gian với kẻ tương tư chẳng vô hình. Nó có màu : ấy là màu vàng héo. Mỗi ngày qua đổ lại một dấu vết trên vòm lá. Cái cây khác nào một cuốn lịch thiên nhiên. Hơn thế, cái cây là nhân chứng của mối tương tư, là tri kỉ câm lặng của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư hay là kẻ đồng nạn ? – nạn nhân bởi sự hững hờ của ai kia. Anh đợi em khi cây hãy còn xanh, đến nay cây đã vàng hết cả rồi, vậy mà… Đợi chờ làm cây héo úa, làm người héo hon !
Cái cây kia là hình ảnh khác của anh ! Cái cây kia chính là anh. Tả cảnh ngụ tình là thế ! Phải nói chữ “nhuộm” thật đắt. Cũng viết về sự thay đổi sắc màu trên cây cỏ, khi Thuý Kiều tiễn biệt Thúc Sinh, Nguyễn Du viết:
Chữ “nhuốm” rất động. Nói được sự biến đổi đang diễn ra, chưa hoàn tất. Nó cũng trực tiếp ! Dường như sắc màu này vốn từ cuộc chia li ở câu trên đã bước sang câu dưới, đã phổ vào cảnh vật nên mới “nhuộm”. Nó là sự lây lan từ tinh thần con người xâm nhập vào cây cỏ. Còn chữ “nhuộm” của Nguyễn Bính gợi được thời gian. Bởi xem chừng nó tĩnh hơn. Quá trình diễn biến đã hoàn tất : lá xanh đã biến thành lá vàng rồi ! sắc thái kể lể đậm hơn. Thời gian đợi chờ của anh đằng đẵng, dằng dặc đến nồi đủ đổ nhuộm một cây xanh thành hẳn cây lá vàng cả rồi ! Lời thơ vì thế mà khổ sở, khắc khoải bội phần.
Có phải tương tư là một gánh nặng đơn phương, càng nặng nề bao nhiêu, càng nghĩ “đối phương” vô tình bấy nhiêu. Vì thế mà cung bậc tương tư cứ chuyển biến rất tự nhiên từ kể lể, thở than sang trách móc ? Mà lời trách móc thì, ôi chao, đầy một lối “quy kết” khó mà “chạy tội” được :
Vẫn cái “luận điệu” dễ ghét ấy. Kể lể nông nỗi mình thì cũng một sự xa cách kia mà hoá muôn trùng, thăm thẳm. Còn ở đây thì “phủ định sạch trơn” : không hề có xa cách – không có cách trở đò giang, không phải không có đường, mà thậm chí còn gần lắm, chỉ có một đầu đình thôi. Tất cả chỉ do em hờ hững chứ chả có lí do khách quan gì ! Người đâu có người mỗi lời lại một vận vào người ta thế có “khiếp” không ! Nhưng không có luận điệu ấy thì làm sao có thể “quy chụp” người ta vô tình được ! Sao những trái tim yêu lại có thể “ranh mãnh” một cách hồn nhiên đến thế ! Vậy đấy, trong nỗi tương tư, trái tim thường cất lên những lời buộc tội thật dễ thương. Và khi “người ta” đã nhân danh nỗi khổ vì tương tư, thì nghe những lời buộc tội “khó chịu” đến đâu cũng đành mà “chịu khó” thôi, nghĩa là cũng thật dễ chịu thôi, chẳng phải thế sao ?
Trách chưa hết đã lại hờn:
Và cuối cùng thì khẳng định đinh ninh:
Tất cả đã sẵn sàng và đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ còn em nữa thôi ! Thôn Đoài đã hẳn là nhớ thôn Đông, điều ấy không còn nghi ngờ bàn cãi nữa rồi. Vậy thì, cau thôn Đoài còn biết nhớ giầu không thôn nào nữa đây. Câu thơ chứa trong nó một lô gích thật nguy hiểm!
Vậy là, trong thẳm sâu tâm lí, tương tư chính là khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát thành đôi thành lứa. Khao khát ấy tràn ra trong giọng điệu khi kể lể phân trần, khi giận hờn trách móc. Khao khát ấy còn ký thác vào những cặp đôi giấu mình suốt dọc bài thơ. Ban đầu những đồi ấy còn xa xôi, càng về sau càng xích lại gần. Lần đầu, 1990, khi viết cho sách Để dạy tốt Văn 11 dành cho giáo viên, tôi mới chỉ nhận ra một nửa số cặp ấy. Giờ thống kê kĩ hơn, mới thấy nhiều cặp đôi hơn ẩn náu khắp bài thơ :
Và cuối cùng là :
Vòng vo, xa gần, cuối cùng vẫn cứ tụ lại ở điều cần nhất, khắc khoải nhất : ấy là trầu – cau! Mà trầu cau là chuyện nhân duyên. Điểm truyền thống rất nổi bật ở Nguyễn Bính là quan niệm luyến ái. Là một nhà thơ mới, nhưng Nguyễn Bính không có cái chủ trương yêu hiện đại với cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây lát, cái tình ngoài thiên thu như điệu sống thời thượng bấy giờ. Các nhà thơ hiện đại chỉ quan tâm đến tình, ít quan tâm đến duyên. Nguyễn Bính quả là chân quê khi coi trọng nhân duyên. Yêu đương với chàng thi sĩ này dứt khoát phải gắn liền với chuyện trăm năm, với hôn nhân. Nghĩa là với cau – trầu. Thực ra, những cặp hình ảnh kia vẫn chưa thành đôi hẳn, mà mới chỉ ở dạng tiềm năng, vẫn còn để ngỏ và chờ đợi. Vâng, đợi chờ một vị “cứu tinh” duy nhất là Em. Em đến, trầu cau sẽ thắm lại và tất cả các cặp còn hờ kia sẽ kết thành đôi. Bệnh tương tư sẽ được cứu chữa ! Nỗi khổ sở sẽ hết giày vò ! Vân vân và vân vân.
Nhưng em biết không, khi tất cả những điều kia đã thành, thì cũng là lúc nỗi tương tư bắt đầu… bị hoá giải.
Phân tích bài thơ Tương tư – Mẫu 3Nguyễn Bính là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám. Giữa những giọng điệu mới lạ, thơ Nguyễn Bính vẫn giữ được âm hưởng gần gũi với ca dao dân ca, giản dị hồn nhiên mà ngọt ngào, thắm thiết. Tương tư in trong tập Lỡ bước sang ngang, xuất bản năm 1940 tại Hà Nội. Tập thơ này đã mang lại tiếng vang cho tác giả và dấy lên trong đông đảo người đọc một phong trào thuộc thơ, yêu thơ Nguyễn Bính. Bài thơ Tương tư nói lên tâm trạng khắc khoải chờ mong của một chàng trai đang yêu với tình yêu đơn phương không được đáp đền. Mối tương tư ấy được đặt vào khung cảnh nông thôn với dáng dấp một mối tình chân chất như trong ca dao và mang hương vị đồng quê mộc mạc.
Tâm lí của những kẻ đang yêu là luôn muốn được gần gũi bên nhau. Bởi vậy, một ngày không gặp dài bằng ba thu. Những người đang yêu nhớ nhau mà không gặp được nhau thì sinh ra tương tư. Thường là một người thương nhớ một người mà không được đền đáp lại, trường hợp này trong văn chương mới gọi là tương tư. Lịch sử tình yêu xưa nay đã ghi nhận bao trái tim Trương Chi tan nát bởi mối hận tình. Chàng trai trong bài thơ này cũng tương tư nhưng có phần nhẹ nhàng hơn bởi tình yêu chưa đặt được cơ sở rạch ròi.
Bốn câu thơ đầu bày tỏ nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu. Chàng trai không giấu là mình tương tư:
Mối tương tư ấy được thể hiện bằng những hình thức quen thuộc trong ca dao xưa, ở đây, lối hoán dụ nghệ thuật, thủ pháp nhân hóa và thành ngữ dân gian kết hợp với nhau hài hòa, tự nhiên: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, rồi bệnh của giời, bệnh của tôi. Dường như đất trời cũng chia sẻ nhớ mong, dự phần tương tư với con người.
Tôi yêu nàng, tôi tương tư, nào có khác chi trời lúc gió lúc mưa. Tâm trạng tương tư của chàng trai cũng tự nhiên như quy luật của trời đất vậy.
“Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện cùng với những “cái tôi” khác trong Thơ mới lúc bấy giờ; có điều nó mang màu sắc độc đáo bởi nó thiết tha, chân thành, gần gũi với cuộc đời bình dị của người dân quê. Nó có thôn Đông, thôn Đoài, có chín nhớ mười mong, có trầu, có cau. Tưởng như một đôi trai gái đồng quê mới bén duyên nhau bên hàng rào dâm bụt, bên giậu mồng tơi, vừa rõ ràng mà vừa mơ hồ. Nhân vật tôi thì đã rõ, còn nhân vật nàng thì vẫn thấp thoáng, vu vơ.
Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ nói thật là mình đang tương tư thì đến ba khổ thơ sau, nhà thơ trách người mình yêu sao quá hững hờ:
Vậy là chàng trai đang nhớ thật, đang tương tự thật, nhưng khổ tâm ở chỗ nhớ thương có đi mà không có lại. m điệu thơ lục bát uyển chuyển, mượt mà rất hợp với cách thể hiện dung dị: nào là hai bên chung lại một làng, bên ấy, bên này; nào là Cách nhau có một đầu đình; Có xa xôi mấy mà tình xa xôi. Trách móc rồi tự bộc bạch là mình Tương tư thức mấy đêm rồi và ước mong: Bao giờ bến mới gặp đò, Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau? Trách, hỏi liên tiếp, dồn dập mà người ta vẫn hững hờ, xa xôi. Ở đời có những tình yêu như thế bởi đối tượng mình yêu đến tương tư kia lại mơ hồ, vô định. Trách và hỏi đều rơi vào khoảng trống khiến cho nỗi tương tư càng trở nên xót xa, vô vọng.
Vẫn là bên ấy, bên này cách biệt. Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nay đã thành cây lá vàng. Thời gian cứ lạnh lùng trôi mà bên ấy vẫn bằn bặt bóng chim tăm cá. Hỏi làm sao bên này chẳng chờ đợi đến hao mòn, tàn úa? Mơ làm chi đến chuyện bao nhiêu ngói bấy nhiêu tình hay chuyện tam tứ núi, ngũ lục sông?
Thế là đã rõ: Tất cả đều vu vơ, chỉ có một điều rất thật là nỗi buồn da diết của chàng trai đang tương tư. Yêu người mà chẳng được người yêu, nhớ mong mà chẳng gặp. Một mối tình như thế sẽ kết thúc ra sao? Chàng trai trở lại với ước mơ thầm kín về một cuộc hôn nhân tốt đẹp cùng nỗi băn khoăn, khắc khoải của lòng mình:
Đến lúc này thì không cần vòng vo, ẩn giấu chi nữa, chàng trai không còn xưng tôi mà mạnh dạn xưng là anh và gọi nàng bằng em. Cũng chẳng cẩn bóng gió xa xôi: Bao giờ bến mới gặp đò hay Tương tư thức mấy đêm rồi mà nói thẳng đến chuyện hôn nhân:
Thử hình dung cau ấy, trầu này mà kết thành một mâm xinh đẹp thì thật tà đúng nghi lễ cưới xin. Nhưng trớ trêu làm sao: trầu thì ở nhà em, cau lại ở nhà anh. Em ở thôn Đông, anh ở thôn Đoài: Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông. Vậy: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? Như vậy là tương tư chưa đi quá nỗi nhớ và nỗi nhớ vẫn chỉ là một bên, một chiều. Tuy có nhích lên một chút cho thân mật hơn trong cách xưng hô anh và em, nhưng rồi lại quay về nơi ẩn náu cũ: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, nghĩa là chẳng tiến lên được một bước nào. Mon men tới chuyện trầu cau nhưng vẫn không thoát khỏi nỗi buồn bởi nhớ nhung người ta mà chẳng được người ta đền đáp lại. Cho nên đành chấm dứt nỗi sầu bằng một câu hỏi tu từ: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? “Cái tôi” hiện đại bộc lộ một cách tự nhiên dưới hình thức quen thuộc của ca dao xưa: thôn Đoài, thôn Đông… và nhờ đó mà nỗi đau dường như vợi bớt. Cho nên nỗi tương tư cũng mới chỉ đến mức chín nhớ mười mong hoặc thức mấy đêm rồi, kể cả sự vô vọng dường như kéo dài dằng dặc trong không gian và thời gian kia cũng chỉ là chuyện bến chưa gặp đò, hoa chưa gặp bướm mà thôi.
Bài thơ là một mảnh hồn của nhà thơ, là “cái tôi”mang đậm phong cách Nguyễn Bính: giản dị, hồn nhiên, dân dã mà không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Nhà thơ nói chuyện tương tư, kì thực là nói tới khao khát tình yêu và hạnh phúc. Qua đó khẳng định “cái tôi cá nhân” với quyền được sống đúng nghĩa của nó. Tương tư là một trong nhiều dẫn chứng chứng minh cho nhận xét tinh tế của Tô Hoài: Nguyễn Bính là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê.
Phân tích bài thơ Tương tư – Mẫu 4Tác giả Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ đi tiên phong và tiêu biểu cho phong trào thơ mới. Tuy nhiên khác với các nhà thơ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp thì thơ của Nguyễn Bính lại thường đậm đà truyền thống dân tộc, văn hóa dân gian, gắn bó với sự bình dị, mộc mạc của đồng quê. Bài thơ “Tương tư” của ông nằm trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” là một bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của ông.
Nhan đề bài thơ là “Tương tư” ám chỉ một trạng thái của con người, tương tư có nghĩa là nhớ nhung, nhưng lại không đơn thuần là nhớ nhung mà còn chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau nữa. Sự tương tư thường bắt đầu với những con người đang yêu, và trong bài thơ này, nhân vật trữ tình tương tư là một chàng trai quê chân thật, chất phác. Diễn biến trong tâm trạng của chàng trai chính là mạch cảm xúc của bài thơ, trong bốn câu thơ đầu ta cảm nhận được nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu:
Nỗi nhớ ấy được tác giả thể hiện bằng những hình thức quen thuộc của ca dao xưa, có thể thấy hình ảnh hoán dụ “thôn Đoài” và “thôn Đông” chính là con người, và chính là chàng trai của thôn Đoài đang nhớ tới người mình yêu ở thôn Đông. Rồi lại đong đếm cụ thể nỗi nhớ mong ấy bằng thành ngữ dân gian “chín nhớ mười mong”. Có thể thấy nỗi nhớ ấy đã quá đong đầy, chan chứa. Hình ảnh ví von đầy hài hước “nắng mưa” là bệnh của trời đó là lấy cái quy luật của tự nhiên, của trời đất để thể hiện cho sự tương tư trong tình yêu cũng là một lẽ tự nhiên như thế. Tưởng như đó là một đôi trai gái đã bén duyên nhau, nhưng thực ra lại vừa rõ ràng vừa mơ hồ, tình cảm của chàng trai thì đã rõ, còn cô gái thì vẫn thấp thoáng, vu vơ. Bởi thế mà trong ba khổ thơ sau, lời hờn trách của chàng trai được bộc lộ ra, trách sao người mình yêu quá hững hờ:
Advertisement
Nỗi nhớ tương tư của chàng trai đang dần rơi vào nỗi khổ tâm, bởi có thương đi mà chẳng có thương lại. Sự trách móc nhẹ nhàng sao gần nhau chỉ cách nhau có “một đầu đình” mà bên ấy lại chẳng sang bên này, để cho bên này chờ mong mòn mỏi. Trách móc rồi lại tự bộc bạch rằng vì tương tư về người mình yêu mà đã thức trắng bao đêm, chỉ mong ước được gặp người mình yêu, thế nhưng càng nhớ, càng trách, càng hỏi thì người ta vẫn cứ hững hờ, xa xôi. Tình yêu như thế ở đời không phải ít, một bên thì yêu đến si tình, tương tư đến khổ tâm còn một bên lại mơ hồ, vô định.
Vậy nên có trách móc hay tương tư cũng đều rơi vào khoảng không, không ai cảm thấu, càng khiến cho nỗi tương tư thêm xót xa, chua chát. Sự cách biệt giữa bên ấy bên này ngày càng xa xôi, thời gian đã dài đằng đẵng “ngày lại qua ngày” đến nỗi la xanh nhuộm chuyển thành lá vàng, thế nhưng thời gian trôi lạnh lùng như chính sự lạnh lùng của bên ấy. Hỏi cứ như vậy làm sao bên này lại chẳng chờ đợi đến héo mòn, khô úa.
Như vậy cho đến những khổ thơ này ta đã rõ: tất cả đều là từ một phía, chỉ là nỗi tương tư chân thành của chàng trai không được đáp lại. Yêu người nhưng chẳng được người yêu lai, nhớ mong nhưng chẳng được gặp gỡ, bởi người ta cũng chẳng muốn gặp mình, chàng trai lại đành quay lại với chính mình, trở lại với niềm mơ ước thầm kín của mình về một mối nhân duyên tốt đẹp:
Chàng trai đã mạnh dạn xưng “anh” và gọi người mình yêu là “em”, chẳng cần bóng gió, vòng vo xa xôi nữa mà đi thẳng tới vấn đề muốn được kết tóc se duyên, muốn được ở bên cạnh người mình yêu thương. Thế nhưng thật trớ trêu thay chàng trai vẫn không thoát khỏi được nỗi nhớ mong chẳng được đền đáp, vẫn là câu hỏi không ai hồi đáp.
Qua bài thơ “Tương tư” chúng ta thấy được một mảnh hồn thơ của Nguyễn Bính trong đó, đó chính là cái giản dị, hồn nhiên mà dân giã, không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Chỉ là nói chuyện tương tư nhưng sâu thẳm là nhà thơ đang nhắc tới khát khao tình yêu và hạnh phúc.
Phân tích bài thơ Tương tư – Mẫu 5Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét Nguyễn Bính rằng:” Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường”. Đúng vậy, con người ấy sống trong từ câu thơ, từng nỗi nhớ da diết. Nỗi nhớ ấy thể hiện rõ nhất trong bài thơ Tương Tư trích từ tập Lỡ Bước Sang Ngang- một tập thơ tiêu biểu của ông trước cách mạng.
Ai trong chúng ta đã một lần ” tương tư” sầu nhớ chắc hẳn sẽ thấu hiểu cảm xúc ấy. Tương tư là thương, là nhớ, là bồi hồi khi nghĩ về hình bóng yêu thương. Nó là phức hợp cảm xúc, dậy lên như từng đợt sóng trong lòng:
Mở đầu khổ thơ là nỗi nhớ nhưng là nỗi nhớ gián tiếp qua không gian. Đó là “thôn Đoài” nhớ “thôn Đông”, nỗi tương tư giăng mắc khắp không gian bởi lối hoán dụ quen thuộc trong ca dao xưa. Kín đáo mà không kém phần tâm tình tha thiết và sâu sắc hơn nữa tác giả lấy chuyện nắng chuyện mưa, mượn “căn bệnh” vốn dĩ của trời để trải lòng mình. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như quy luật của thiên nhiên tạo hóa vậy. Bốn câu thơ ấy mở ra nỗi nhớ khiến người đọc thích thú tò mò về mối tương tư của anh chàng thôn Đoài và cô nàng thôn Đông ngày ấy
Đến những câu thơ tiếp theo, ta như nghe thấy lời trách móc nhẹ nhàng và rất kín đáo thôi. Trách cô gái hững hờ, trách cô gái kia sao lại vờ như không biết gì về nỗi lòng ta:
Nhịp thơ nhanh, câu hỏi dồn dập của nhân vật trữ tình hỏi người thương của mình. Vì sao nàng chẳng sang? Hai thôn ấy chung một làng mà sao nghe cách xa đến vậy, nếu mà nhớ người ta thì phải tìm đường mà sang thăm người ta chứ đằng này lại còn trách người ta không sang với mình. Cũng không biết được rằng có phải cô gái không sang không hay là tại vì nỗi tương tư kia khiến cho người tương tư thấy thời gian quá dài, và không gian thật gần mà trở nên xa xôi quá. Một khi con người ta tương tư, cũng hay nghĩ rằng nửa kia không quan tâm, vô tâm vô tình lắm. Rồi cứ thế ” ngày qua ngày lại qua ngày” điệp từ ngày lặp lại hai lần trong một câu thơ kết hợp với hai từ “qua, lại” khiến ta cảm thấy thời gian chờ đợi đang dần trôi đi thật chậm và thật đều, dài tựa ba thu. Thời gian làm cảnh vật trở nên thiếu sức sống, lá xanh cũng đã bị thời gian nhuộm vàng mà người thương vẫn không sang thăm. Câu hỏi cất lên vừa thương nhớ vừa có một chút trách móc nửa kia của mình nhưng nó vang lên mãi không tìm thấy lời đáp. Hình ảnh bến đò trong những câu thơ tình lại hiện lên trong tương tư của Nguyễn Bính, đó là ước muốn được ở bên nhau, gắn bó khăng khít.
Càng về cuối, những câu thơ vang lên như một ước nguyện với một tình yêu viên mãn vững bền và hạnh phúc:
Hình ảnh trầu cau thể hiện ước nguyện được ở bên nhau của nhà thơ với người mình thầm thương trộm nhớ. Trầu cau từ xưa là thứ không thể thiếu trong tập tục cưới hỏi và nó là hình tượng thể hiện mối tình trăm năm hạnh phúc. Giàn giầu như đang chờ đợi hàng cau đến để têm thành miếng trầu kết duyên vợ chồng trăm năm. Từ nỗi tương tư da diết của nhà thơ đã biến thành mong muốn được nên duyên một đời. Miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu như gợi ta nhớ đến sự tích trầu cau hay truyện cổ tích Tấm Cám xưa. Nét mộc mạc giản dị trong từng miếng trầu ấy, đậm đà tình quê. Câu thơ “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” một lần nữa vang lên tao hiệu ứng đầu cuối tương ứng, tiếng yêu như da diết khôn nguôi cho đến cuối bài. Như vậy mở đầu bằng nỗi nhớ thì cuối cùng nhà thơ cũng kết thúc bằng một nỗi nhớ. Trách móc hờn giận mà tràn đầy tình ý, nhẹ nhàng và sâu lắng.
Tương Tư của Nguyễn Bính là một trong những bài thơ góp phần tạo nên tên tuổi của ông và nó làm giàu cho phong trào thơ mới nói riêng và nên thơ ca Việt Nam nói chung. Đọc bài thơ ta biết, nỗi nhớ ấy sẽ còn vọng mãi qua bao thời đại thi ca.
Văn Mẫu Lớp 9: Phân Tích 3 Khổ Thơ Đầu Bài Mùa Xuân Nho Nhỏ 3 Dàn Ý &Amp; 6 Mẫu Phân Tích 3 Khổ Đầu Mùa Xuân Nho Nhỏ Của Thanh Hải
Dàn ý phân tích 3 khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ Dàn ý 1A. Mở bài: Giới thiệu chung:
Có những tác phẩm đọc xong gấp sách lại là ta quên ngay cho đến khi xem lại mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi, nhưng cũng có những tác phẩm như dòng chảy qua tâm hồn ta để lại trong ta những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm. Và “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải cũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ đã ghi lại những cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước. Đến với 3 khổ thơ đầu của bài thơ, chúng ta sẽ cảm nhận được điều đó.
B. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm
Bài thơ ra đời tháng 11/1980 – 5 năm sau ngày đất nước giành được độc lập.Và đây cũng là một hoàn cảnh rất đặc biệt đối với nhà thơ Thanh Hải. Ông đang bị bệnh nặng phải điều trị ở bệnh viện trung ương thành phố Huế, và một tháng sau ông qua đời. Có hiểu cho hoàn cảnh của nhà thơ trên giường bệnh ta mới thấy hết được tấm lòng tha thiết với cuộc sống, với quê hương đất nước của nhà thơ.
2. Phân tích đoạn thơ
2.1. Khổ 1 – Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên
– Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được mở ra bằng những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hài hòa, tràn đầy sức sống:
+ Ngay hai câu mở đầu ta đã bắt gặp một cách viết khác lạ. Tác giả không viết như bình thường: “một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại “Mọc giữa dòng sông xanh/Một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả . Thông qua phép đảo ngữ ấy, nhà thơ như muốn khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xòe nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.
+ Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông trong xanh chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở dải đất miền Trung.
+ Và nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay bông súng,bông trang mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê. Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương – vốn là nét đặc trưng của những cô gái đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự.
– Tuy nhiên bức tranh thiên nhiên không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện cất lên với muôn vàn lời ca tiếng hót, reo mừng:
+ Nhà thơ gọi “ơi” nghe sao mà tha thiết thế! Lời gọi ấy không cất lên từ tiếng nói mà cất lên từ sâu thẳm tình yêu thiên nhiên, cất lên từ tấm lòng của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh rộn rã.
+ Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một, cảm xúc từ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú.
+ Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời”. Thứ âm thanh không thể thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với những bóng đen u ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.
– Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
+ Cụm từ “ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…Nhưng theo mạch cảm xúc của bài thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân.
+ Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Thành Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác.
+ Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với cảm xúc say sưa, xốn xang, rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của cuộc đời.
2.2. Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước
* Khổ 2
Từ những cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, Thanh Hải tiếp tục bộc lộ những cảm xúc của mình khi đất nước bước vào một mùa xuân mới:
– Không phải ngẫu nhiên trong khổ thơ lại xuất hiện hình ảnh“người cầm súng” và “người ra đồng”. Họ là những con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
– Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai,đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng.
– Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn nhựa sống:
+ “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng.
+ “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân.
+ Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt.
+ Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu.
+ Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù,hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hi vọng ngày mai.
– Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:
+ “Hối hả” diễn tả nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
+ Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng.
* Khổ 3
Cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm dân tộc:
+ Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam:
+ Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ hàm súc
– “Đất nước như vì sao/Cứ đi lên phía trước”. Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đất nước đang hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được.
3. Đánh giá
Như vậy, bằng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ, nghệ thuật đảo ngữ cùng các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị gợi tả, hai khổ thơ đầu đã giúp người đọc cảm nhận được những cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước. Đó là niềm say sưa ngây ngất trước vẻ đẹp mộng mơ, dịu dàng của bức tranh thiên nhiên xứ Huế, là niềm tin, niềm vui, niềm tự hào khi đất nước bước vào xuân. Và đằng sau những vần thơ ấy, ta nhận ra ở Thanh Hải là niềm yêu đời, yêu cuộc sống, là tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với quê hương đất nước. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng biết bao.
C. Kết bài
– Đánh giá chung về đoạn thơ
– Đoạn thơ khơi gợi trong em những tình cảm, trách nhiệm gì? Em học được bài học gì?
Dàn ý 21. Mở bài
Giới thiệu tác giả: Thanh Hải tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam ngay từ buổi đầu.
Giới thiệu tác phẩm: “Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu đất nước thiết tha và những ước nguyện của nhà thơ.
Giới thiệu đoạn trích: Đoạn thơ là ba khổ đầu của bài, vẽ nên một bức tranh thiên nhiên trong sáng, đẹp đẽ, khung cảnh đất nước tràn đầy khí xuân và bộc lộ tấm lòng của nhà thơ đối với đất nước, với cuộc đời.
2. Thân bài
a. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân (6 câu đầu)
* Bức tranh thiên nhiên trong 6 câu đầu được vẽ bằng vài nét chấm phá nhưng rất đặc sắc.
– Đó là bức tranh giàu hình ảnh và màu sắc:
Có sắc xanh của dòng sông, có màu tím biếc của hoa, có cánh chim chiền chiện bay vút lên trời cao. Không gian thơ rất rộng mở: vừa cao vừa rộng dài. Màu xanh tươi non của sự sống mới là màu sắc chủ đạo của bức tranh, rất hài hòa với sắc tím – đặc trưng của xứ Huế.
Nghệ thuật đảo ngữ và việc sử dụng động từ “mọc” ở ngay câu thơ đầu tiên khiến bông hoa trở thành điểm nhấn đặc sắc của bức tranh. Một bông thôi nhưng sức sống của nó mãnh liệt vô cùng!
– Đó cũng là bức tranh rộn rã, tươi vui với tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác ở các câu 5,6 – từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác), tiếng chim trong ánh sáng của mùa xuân, lan tỏa khắp bầu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi” hay là giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong veo, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc? Nhưng dù hiểu theo cách nào đi nữa, tác giả cũng thật tài tình, gợi sự trong trẻo, thanh khiết của tiếng chim và cả của mùa xuân.
* Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của đất trời
Nhà thơ đã quan sát và cảm nhận khí xuân tươi vui bằng nhiều giác quan như thị giác, thính giác, xúc giác, nhưng hơn cả là bằng tâm hồn rộng mở, luôn mở rộng lòng hướng tới sự hòa hợp với thiên nhiên.
Niềm say mê của nhà thơ còn thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên: “ơi”, “hót chi… mà”. Đặc biệt, nhà thơ còn vừa nâng niu, trân trọng vừa tha thiết, trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện.
b) Hình ảnh đất nước mùa xuân
* Không khí xuân tràn ngập mọi nẻo đường của Tổ quốc
Hai câu đầu khổ gợi liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận với cành lá ngụy trang. “Lộc dắt đầy quanh lưng” gợi màu xanh của sức sống mới đang căng tràn trong mỗi sự vật và cả trong lòng người, trong sức trẻ.
Hai câu tiếp là hình ảnh những người nông dân cần cù, chăm chỉ đang ươm mầm cho sự sống trên những cánh đồng quê hương. Hai câu thơ gợi ra cái màu xanh non mơn mởn trải dài mênh mông trên mọi miền quê nước Việt.
“Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao”: Điệp từ “tất cả” cùng các từ láy tượng hình, tượng thanh đã tái hiện không khí hối hả, vội vã, khẩn trương, không ngừng nghỉ trên khắp đất nước. Cái náo nức, hồ hởi, sự hăm hở như căng tràn trong mỗi con người.
* Suy ngẫm về đất nước của nhà thơ
Đất nước được nhân hóa như một bà mẹ “vất vả và gian lao” nhưng vẫn “cứ đi lên phía trước”. Câu thơ như chứa trong nó cả ngàn năm lịch sử dựng nước, giữ nước đầy gian khổ, nhọc nhằn, đau thương của dân tộc ta.
Nhà thơ bộc lộ niềm tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng, trường tồn, bất diệt của đất nước qua hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao”.
Hình ảnh “đất nước” điệp lại hai lần cũng thể hiện niềm xúc động, tự hào và tình yêu nước của nhà thơ.
c) Nghệ thuật
Thể thơ năm chữ gần với những làn điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần chân tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc.
Hình ảnh tự nhiên, giản dị mà giàu ý nghĩa biểu tượng (“cành hoa”, “con chim”, nốt trầm”).
Giọng thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân, thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước. Cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.
3. Kết bài
Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã cho ta thấy vẻ đẹp của hồn thơ Thanh Hải tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống.
Rút ra bài học về tinh thần lạc quan, yêu đời, chan hòa với thiên nhiên, quan tâm tới tình hình đất nước.
Dàn ý 31. Mở bài
Giới thiệu tác giả Thanh Hải và tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
Giới thiệu về 3 khổ thơ đầu của tác phẩm: mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân đất nước, con người.
2. Thân bài
a. Khổ 1: Mùa xuân của thiên nhiên
– Hình ảnh:
“dòng sông xanh”: thiên nhiên trong lành, tươi đẹp
“bông hoa tím biếc”: sức sống tràn đầy
“Con chim chiền chiện, hót vang trời “: âm thanh rộn ràng, náo nhiệt báo hiệu xuân về
– Tâm trạng của tác giả: trân trọng, nâng niu sự sống: “đưa tay hứng”
b. Khổ 2 + 3: Mùa xuân của đất nước, con người
– Hình ảnh:
Người cầm súng: người trực tiếp chiến đấu bảo vệ đất nước
Người ra đồng: người trực tiếp sản xuất ra lương thực phục vụ cho cuộc sống của con người.
– Tác giả nhắc đến người cầm súng và người ra đồng vì đây là hai đối tượng chính phục vụ cho đất nước .
– Hình ảnh “lộc” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả bởi vì lộc ở đây không phải là những chồi non của cây lá mà với tác giả:
Những cành lá ngụy trang gài trên lưng những người cầm súng chính là lộc của mùa xuân: đi bảo vệ tổ quốc, người chiến sĩ như mang cả mùa xuân cho đất nước.
Những nương mạ xanh non của người ra đồng cũng chính là lộc của mùa xuân, lộc trải dài nương mạ họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước.
– Từ những cảm nhận về mùa xuân của con người, nhà thơ chuyển ngòi bút của mình sang cảm nhận mùa xuân của đất nước.
– Hình ảnh “Ðất nước bốn nghìn năm/Vất vả và gian lao”: gợi lại cả một quá trình đất nước đã phải trải qua biết bao đau khổ, gian nan để có được cuộc sống tự do như ngày hôm nay.
– Cách so sánh: “Đất nước như vì sao/Cứ đi lên phía trước”: cho thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của tác giả vào sự phát triển hưng thịnh, đi lên của đất nước .
c. Đánh giá
– Với ba khổ thơ đầu, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc mùa xuân của thiên nhiên, đất nước đầy tươi đẹp, rộn ràng, qua đó cũng thể hiện tình yêu quê hương tha thiết và muốn gắn bó, được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị của ba đoạn thơ
Khẳng định tình cảm yêu mến thiên nhiên, yêu mến quê hương, đất nước của tác giả
Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1Mùa xuân là mùa của khởi đầu, thường gợi lên trong mỗi chúng ta niềm khát khao và hi vọng. Phải chăng vì thế mà Thanh Hải lựa chọn mùa xuân để khởi nguồn cảm hứng. Niềm khát khao cháy bỏng trong tâm hồn nhà thơ Thanh Hải, được gửi gắm qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” (11/1980). Bài thơ như những nốt nhạc trầm bổng, những giai điệu ngân nga cất lên từ đáy lòng của một con người tha thiết được góp phần nhỏ bé vào cuộc đời chung rộng lớn. “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải thể hiện những rung động sâu xa trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, trước những hi sinh và cố gắng say sưa trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng Tổ quốc của toàn dân tộc. Đó là “là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời”.
Mở đầu bài thơ như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về.
Ở khổ thơ thứ nhất, nhà thơ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên về mùa xuân quê hương đất nước rộn rã âm thanh, nên thơ, rực rỡ sắc màu với những đường nét hài hòa, tràn đầy sức sống. Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân tươi đẹp, đầy sức sống và quyến rũ lạ thường. Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, đến khổ thơ thứ hai và ba, Thanh Hải dẫn người đọc đắm chìm vào khung cảnh mùa xuân của cuộc sống, của nhân dân và đất nước rộn ràng trong trẻo cùng những hình ảnh đậm chất sử thi. Hai khổ thơ đồng thời cũng là minh chứng cho tài năng nghệ thuật độc đáo cũng như tình yêu, niềm tự hào sâu sắc mà Thanh Hải dành cho đất nước.
Khi xưa, trong đêm đen của kiếp sống nô lệ, nhà thơ Tố Hữu – một người con xứ Huế đã từng viết:
Đó là Huế trong quá khứ nô lệ đen tối, lầm than.Thời nay,trong hiện tại, Huế đã đổi khác, đang hối hả nhịp chiến đấu, xây dựng cùng đất nước:
Thanh Hải đã vẽ lên một bức tranh mùa xuân đất nước tuyệt đẹp với sức xuân phơi phới, từ đó làm nổi bật lên sức sống mãnh liệt của đất nước. Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và tái hiện khung cảnh mùa xuân của đất nước qua hai hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng là “người cầm súng” và “người ra đồng”. Sức xuân nảy nở nơi những con người chiến đấu và lao động – hai mẫu người gắn liền với chiều dài lịch sử phát triển của đất nước. Họ là những con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển lâu dài: chiến đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Điệp ngữ “mùa xuân” không chỉ gợi tả khung cảnh thiên nhiên đất trời lúc vào xuân mà còn thể hiện được sức sống, sức trẻ tràn đầy của đất nước sau chiến tranh. Mùa xuân đến mang đến tiếng gọi của những cố gắng mới và hi vọng mới, mang đến tiếng gọi của đất nước, của quê hương đang trên đà đổi thay, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của đất nước, của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai, đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng. Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn nhựa sống. “Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân. “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và ác liệt. Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Nhưng đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù, hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hi vọng ngày mai.
Phải chăng mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của Tổ quốc thân yêu? Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ khái quát:
Lối điệp cấu trúc song hành với các điệp ngữ “Tất cả”, “như” kết hợp với từ láy tượng hình “hối hả”, “xôn xao” nhấn mạnh khí thế tưng bừng của đất nước vào xuân thể hiện không khí khẩn trương, niềm vui náo nức bâng khuâng của tâm hồn con người trước mùa xuân lớn lao của dân tộc. Nhà thơ đã khái quát được cả một thời đại của dân tộc. Nhịp điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa như tụ trong từ “hối hả”. Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng. Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Nhịp thơ sôi nổi như nhịp hành khúc cho thấy niềm tin tươi sáng, cái nhìn lạc quan của Thanh Hải về tiền đồ của dân tộc cho dù trong hoàn cảnh khó khăn lúc đương thời.
Những dòng thơ của Thanh Hải thổi vào lòng người một ngọn lửa sống nhắc nhở, thôi thúc con người nhìn đời lạc quan hơn, sống có trách nhiệm, gắn bó với quê hương, đất nước. Khổ thơ đã để lại một cảm nhận về sức sống mãnh liệt của mùa xuân và đất nước, đồng thời diễn tả sự sinh sôi phát triển và sự trỗi dậy bất tận đang bừng lên khắp nơi ở cả thiên nhiên, đất trời và con người khi xuân về.
Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước khi bước vào mùa xuân, nhà thơ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử hơn bốn nghìn năm dân tộc:
Giọng thơ có sự thay đổi từ sôi nổi, hào hùng, mạnh mẽ sang trầm lắng, tha thiết. Thông qua hệ thống các tính từ “vất vả”, “gian lao”, nhà thơ suy ngẫm về truyền thống hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Đó là một truyền thống hào hùng đầy vinh quang nhưng cũng không ít gian nan, vất vả. Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam:
Chính những năm tháng khó khăn ấy, dân tộc mình đã khẳng được ý chí, sức mạnh và bản lĩnh. Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ hàm súc:
Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả khẳng định chiều dài lịch sử của dân tộc và đất nước trong quá khứ và hiện tại luôn có những biến cố thăng trầm nhưng chúng ta vẫn luôn cố gắng nỗ lực vươn lên. Từ đây, nhà thơ có những suy tư chiêm nghiệm về lịch sử dân tộc: Sức xuân của ngày hôm nay là sự kết tụ và phát huy sức xuân của dân tộc, dẫu phải trải qua muôn vàn khó khăn đất nước và con người Việt Nam vẫn tỏa sáng bất diệt. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được. Qua đó, nhà thơ bộc lộ niềm tự hào sâu sắc, mãnh liệt về lịch sử hơn 4000 năm cũng như tiền đồ của dân tộc. Câu thơ năm chữ “Cứ đi lên phía trước” sử dụng nhiều thanh trắc tạo nên một âm hưởng khỏe khoắn gân guốc chắc nịch phù hợp với hình ảnh thơ đậm chất anh hùng. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần. Câu thơ như một lời khẳng định, một sự thể hiện ý chí và lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của nhà thơ và của cả dân tộc về tương lai tươi sáng, tốt đẹp của quê hương, đất nước.
Bài thơ được sáng tác trong lúc đất nước đang gặp muôn vàn gian lao thử thách nhưng giọng thơ vẫn vút cao chan chứa niềm tự hào, tin yêu vào sức sống, sức trỗi dậy của đất nước. Phải là một con người yêu quê hương đất nước tha thiết và giàu lòng lạc quan yêu đời thì Thanh Hải mới sáng tạo nên những dòng thơ sâu sắc như vậy. Điều này thật đáng quý vì nó gieo vào lòng người đọc lời nhắc nhở không bao giờ được chùn bước mà hãy cứ vươn lên.
Với việc sử dụng thể thơ năm chữ giàu nhạc điệu, bút pháp lãng mạn giàu sức gợi đậm chất sử thi và kết hợp khéo léo nhiều biện pháp tu từ và từ láy tượng hình, nhà thơ đã gợi tả hình ảnh đất nước vào xuân tràn đầy sức sống, qua đó thể hiện cái tôi Thanh Hải, niềm tin, niềm tự hào tha thiết về sức sống của dân tộc. Liên hệ với hoàn cảnh sáng tác, người đọc càng yêu hơn, quý hơn những tâm sự của nhà thơ Thanh Hải, một người nghệ sĩ tài ba, một người chiến sĩ, một công dân với tâm nguyện đẹp đẽ luôn sống thủy chung, gắn bó với đất nước.
Đoạn thơ không chỉ lay động trái tim độc giả bởi chất họa gợi cảm, bởi chất nhạc xao xuyến mà còn bởi niềm tin, niềm tự hào mãnh liệt vào sức sống của đất nước, khơi dậy trong ta ý chí quyết tâm không bao giờ chùn bước trước khó khăn thử thách trong cuộc sống.
Với “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải đã góp vào nền thơ hiện đại Việt Nam một bài thơ xuân đẹp. Bài thơ cho thấy một hồn thơ trong trẻo, điệu thơ ngân vang, xúc động. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước được Thanh Hải diễn tả sâu sắc và cảm động. Thi phẩm lay động trái tim độc giả bởi chất họa gợi cảm, bởi chất nhạc xao xuyến và đã làm sáng lên trong ta niềm tin, niềm tự hào mãnh liệt vào sức sống của đất nước, khơi dậy trong ta ý chí quyết tâm không bao giờ chùn bước trước khó khăn thử thách trong cuộc sống.
Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2Đã từ lâu, mùa xuân vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, là nguồn thi hứng dạt dào để người nghệ sĩ viết lên những trang thơ đong đầy cảm xúc. Cũng lấy cảm hứng từ mùa xuân, Thanh Hải đã viết lên bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” . Bài thơ bộc lộ cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn làm một “mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho đời. Đặc biệt ba khổ thơ đầu của bài thơ đã mang đến cho người đọc cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân đất nước, con người.
Mở đầu bài thơ, là hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên được mở ra bằng hình ảnh “dòng sông xanh “,” bông hoa tím biếc” . Đây là những hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên, bức tranh xuân còn có sự xuất hiện của âm thanh tươi đẹp, rộn ràng. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời là âm thanh rộn ràng, náo nhiệt báo hiệu xuân về. Đứng trước thiên nhiên tươi đẹp, tâm trạng của tác giả rất trân trọng, nâng niu . Nhà thơ “đưa tay hứng”, nâng niu, trân trọng tất cả những gì tươi đẹp của sự sống. Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên, đất nước với tâm thế đón nhận, trân trọng từng sự sống của thiên nhiên.
Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của đất nước như tươi đẹp hơn, xuân sắc hơn vì ở đó có sự góp mặt của những người lao động . Bằng cảm xúc dạt dào, nhà thơ đã liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận mà trên vai, trên lưng họ có cành lá nguỵ trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Như vậy, người lính khi ra trận, không chỉ có hành ngũ, tư trang mà họ còn mang theo sức sống của cả dân tộc, mang theo cả mùa xuân của thiên nhiên, đất trời. Không chỉ nói đến những người lính, mùa xuân trong thơ Thanh Hải còn có sự xuất hiện của những người lao động bình thường, đó là những người nông dân trên đồng ruộng. Nói về những người lao động là nói đến những người ươm mầm cho sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng quê hương. Chính họ đã lao động và tạo nên sức sống của mùa xuân thiên nhiên, đất nước. Bằng một tâm hồn tinh tế, nhà thơ nhận ra “tất cả như hối hả/ tất cả như xôn xao “. Sức sống của đất nước, của dân tộc, cũng được tạo nên từ sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng. Và từ đây, nhà thơ xuôi chiều dài lịch sử để nghĩ tới một đất nước bốn nghìn năm văn hiến lâu đời, một đất nước mà nhà thơ tin tưởng rằng nó sẽ như vì sao sáng rực, vụt bay trên bầu trời rộng lớn. Tất cả điều đó đã làm nổi bật lên cảm xúc lạc quan, tin tưởng, sự ngợi ca sức sống quê hương đất nước, dân tộc khi mùa xuân về của tác giả.
Với ba khổ thơ, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc mùa xuân của thiên nhiên, đất nước đầy tươi đẹp, rộn ràng . Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Có thể nói, ba khổ thơ đầu của bài “Mùa xuân nho nhỏ” là ba khổ thơ hay mang nhiều ý nghĩa. Với ba khổ thơ đầu, tác giả đã mang đến cho người đọc cảm nhận hết sức tinh tế về mùa xuân của thiên nhiên, đất trời. Qua đó, đánh thức tình yêu thiên nhiên và ý thức trách nhiệm, ước muốn cống hiến một phần công sức nhỏ bé của mình góp phần làm rạng rỡ thêm mùa xuân của thiên nhiên, đất nước.
Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 3Thanh Hải là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Trong số những tác phẩm mà ông để lại cho bạn đọc thì nổi bật nhất có lẽ là “Mùa xuân nho nhỏ”. Thi phẩm đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời của xứ Huế mộng mơ qua đó làm nổi bật nên hình ảnh của mùa xuân đất nước. Điều này được thể hiện rõ nét qua ba khổ thơ đầu “Mọc giữa…. phía trước”.
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt trước khi nhà thơ sắp vĩnh biệt cuộc đời. Vậy mà bài thơ vẫn rất trẻ trung và đầy khát vọng cống hiến. Bài thơ được cấu tạo theo mạch cảm xúc dạt dào của tác giả. Bằng sự quan sát tinh tế các giác quan nhạy cảm nhưng hơn thế là cả một tấm lòng yêu quê hương Thanh Hải đã vẽ bức tranh xuân thật nhẹ nhàng đằm thắm giản dị nhưng hết sức thơ mộng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
……. ……
Hót chi mà vang trời”
Khung cảnh mùa xuân dần dần được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Ở đây, mùa xuân của Thanh Hải đến với ta không rực rỡ kiêu sa với cành đào Hà Nội, với những nụ mai vàng đang phô trương sắc thắm, mà chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như lọc. Cành hoa nghiêng mình xuống mặt nước tựa như gương ấy để nổi bật lên trên một khung trời được in bóng dưới lòng sông, với màu sắc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương, Thanh Hải đã tạo nên cho bức tranh mùa xuân của mình một nét gì đó vô cùng độc đáo. Và bức tranh ấy lại càng được đẹp hơn, có “hồn” khi cái màu tím kia được nhà thơ tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc chúng ta có thể hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, nhưng dường như cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống. Cái màu tím ấy lan ra, chơi vơi, và khẽ lay động theo những ngọn gió xuân đang thổi lên từ lòng sông xanh mát rượi. Cảnh vật mùa xuân trong bài thơ có lẽ cũng bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng như vùng đất miền Trung quê hương tác giả. Xứ Huế vốn nổi tiếng mộng mơ với núi Ngự sông Hương, với những điệu hò mái nhì mái đẩy, giờ lại càng thêm xinh đẹp dưới ngòi bút tô vẽ của nhà thơ…
Bức tranh thiên nhiên kia nãy giờ đang tĩnh lặng như chất chứa suy tư, chợt sinh động và “sống” hẳn lên vì một nét đâm ngang của cánh chim chiền chiện:
Bức tranh ấy giờ đây chợt đẹp hẳn lên và cũng độc đáo hơn vì có sự pha trộn giữa hai sắc màu: hài hoa (xanh, tím) và lung linh rực rỡ (long lanh). Câu thơ giờ cũng mang một nét gì đó lạ lùng chừng như là vô lí; con chim chiền chiện mà lại hót đến vang cả trời! Thực ra, khoảng trời ấy chính là khoảng không gian của riêng tác giả, trong tim tác giả, vì vậy mà chỉ có một mình tác giả mới cảm nhận được và nghe thấy được mà thôi. Tâm hồn nhà thơ nhỏ bé trước đất trời, chính vì vậy mà tất cả mọi cảnh của tâm hồn ấy cũng trở nên nhỏ xinh và dễ thương đến lạ: con chim nhỏ của mùa xuân nhỏ trong một khoảng không gian nhỏ. Nhưng chính cái “nhỏ” ấy đã phần nào tạo nên được nét độc đáo riêng trong thế đối lập của câu thơ. Tâm hồn ấy, trái tim ấy tuy nhỏ nhưng chỉ chính nó mới cảm nhận được hết mùa xuân của đất trời và vũ trụ thiên nhiên… Và giờ đây tiếng chim lại vang lên, tiếng chim quen thuộc của đồng quê dân dã:
(Tố Hữu)
Say mê với tiếng chim, trước mắt nhà thơ dường như xuất hiện những giọt long lanh đang nhẹ nhàng rơi xuống: “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng!”.
“Từng giọt long lanh”… giọt gì? Giọt nắng, giọt sương, giọt hạnh phúc, hay là giọt xuân đang êm đềm rơi xuống từ cánh chim chiền chiện nhỏ đang tung mình bay lượn để ban phát mùa xuân đến cho mọi người? Nhưng chính xác hơn nhất có lẽ là giọt tiếng chim, giọt tiếng chim mà chỉ có một mình tác giả cảm nhận được, và “trông thấy” được! Nhìn được những vật mà mắt thường không thấy có lẽ do Thanh Hải đang nhìn bằng con mắt của một nhà thơ. Tiếng chim thì nghe, nhưng ở đây tác giả lại nhìn. Hiện tượng chuyển đổi cảm giác này lẽ ra chỉ có được ở những người say. Câu thơ đang vô lí giờ lại bỗng nhiên hợp lí. Quả thật Thanh Hải đang say, ông say trước khung cảnh thiên nhiên vào mùa xuân thật xinh tươi, đẹp đẽ, say vì nàng chúa xuân quá diễm lệ, yêu kiều. Và từ đó trân trọng, thật nhẹ nhàng, tác giả đã đưa tay ra hứng để đón lấy những điều may mắn, cái tốt đẹp và cái “lộc” của mùa xuân đã ban tặng cho tâm hồn của mỗi con người, và đặc biệt là cho tác giả.
Nếu khổ thơ thứ nhất của bài thơ đã mở ra khung cảnh mùa xuân của thiên nhiên thì khổ thơ thứ hai đã mở ra khung cảnh mùa xuân của đất nước.
Có thể thấy, nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận và tái hiện khung cảnh mùa xuân của đất nước qua hai hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng là “người cầm súng” và “người ra đồng”. Người đọc dễ dàng nhận thấy, “người cầm súng” và “người ra đồng” là hai hình ảnh biểu tượng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhất của đất nước ta ở thời điểm bài thơ ra đời đó chính là cùng lúc vừa chiến đấu ở tiền tuyến vừa lao động, sản xuất để xây dựng hậu phương vững chắc. Đặc biệt, hình ảnh “người cầm súng” lại đi liền với hình ảnh “lộc giắt đầy quanh lưng” đã gợi cho người đọc liên tưởng đến những vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ trên đường hành quân ra trận như đang nảy lên những chồi non xanh mơn mởn cùng các anh ra trận, mùa xuân như đang về trên khắp mọi nơi, mọi nẻo đường. Còn hình ảnh “người ra đồng” được sử dụng kết hợp với hình ảnh “lộc trải dài nương mạ” gợi liên tưởng đến những cánh đồng tươi tốt, xanh thẳm, màu mỡ được những bàn tay khéo léo, chăm chỉ, cần mẫn của những người lao động chăm bón và tạo nên. Tất cả những hình ảnh và sự kết hợp độc đáo ấy đã gợi lên một bức tranh mùa xuân tràn đầy sắc xanh, tươi mới và tuyệt diệu. Thêm vào đó, khổ thơ còn sử dụng điệp từ “mùa xuân” và điệp từ “lộc” đã gợi lên quang cảnh mùa xuân tươi đẹp đang vươn ra những chồi lộc non và đồng thời cũng gợi lên thành quả của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khổ thơ khép lại với những dòng thơ sử dụng điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” làm cho nhịp thơ trở nên gấp gáp, gợi một nhịp sống sôi động, hối hả, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Và để rồi, trước khung cảnh tươi đẹp và tràn đầy sức sống ấy của mùa xuân đất nước tác giả đã bày tỏ niềm tự hào, niềm tin của mình vào một tương lai ngày mai tươi sáng, tốt đẹp.
Nhà thơ Thanh Hải đã nhắc lại chặng đường bốn nghìn năm của đất nước thông qua hệ thống các tính từ “vất vả”, “gian lao” từ đó có thể cho thấy chặng đường dựng nước và giữ nước của dân tộc ta là một chặng đường đầy những gian nan, khó khăn và thử thách, mất mát. Và cũng trong chính những năm tháng khó khăn ấy, dân tộc mình đã khẳng được ý chí, sức mạnh và bản lĩnh. Đặc biệt hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao” đã mở ra nhiều liên tưởng độc đáo và giàu ý nghĩa. Hình ảnh so sánh ấy vừa gợi đến nguồn sáng trường tồn mãi với không gian, thời gian, vừa gợi lên niềm tin của tác giả về một tương lai tươi sáng, rộng mở của đất nước với khí thế mạnh mẽ không gì cản nổi. Cùng với đó, cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm”, “đất nước như vì sao” đã diễn tả sự vận động đi lên của lịch sử và là lời khẳng định về sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. Cụm từ “cứ đi lên phía trước” khép lại khổ thơ như một lời khẳng định, một sự thể hiện ý chí và lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của nhà thơ và của cả dân tộc về tương lai tươi sáng, tốt đẹp của quê hương, đất nước.
Càng đọc thơ Thanh Hải, ta càng thêm cảm thấy thú vị và say sưa. Nhất là sau khi đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như thấy được cả men rượu của mùa xuân đang lan tỏa vào đất trời, hòa vào trong lòng mùa xuân và trong lòng người đọc. Đây quả thật đúng là mùa một “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải đã dâng tặng cho đời. Nếu chúng ta biết rằng Thanh Hải viết bài thơ này khi ông đang nằm trên giường bệnh, ông viết không phải vào dịp xuân… và chỉ ít tháng thôi ông đã ra đi mãi mãi… dù sao, bông hoa tím biếc chung với đời, dòng sông xanh biếc của hi vọng, của niềm tin với đời vẫn là hình ảnh nhỏ nhẹ nói với ta bao điều…
Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 4Mùa xuân là để tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:
Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:
Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.
Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:
“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của Thanh Hải mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ “mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của TH, không chỉ có hình ảnh, mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kỳ của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn ?
Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:
“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm ? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.
Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:
Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:
Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử:
Chặng đường lịch sử của đất nước qua bốn ngàn năm trường tồn đã trải qua biết bao thăng trầm, với bao nhiêu là “vất vả và gian lao”. So sánh đất nước với vì sao sáng, nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào đối với đất nước và dân tộc. Sao là nguồn sáng bất diệt, là vẻ đẹp vĩnh hằng trong không gian và thời gian. Ngôi sao sáng đã trở thành vẻ đẹp lộng lẫy trên lá cờ VIệt Nam, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của con người và đất nước Việt Nam. Đất nước vẫn không ngừng phát triển, vẫn “cứ đi lên phía trước” để sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới. Đoạn thơ thể hiện ý chí vươn lên không ngừng của con người và dân tộc Việt Nam.
Tình yêu thiên nhiên, sự xúc động trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân cách mạng và khát vọng cống hiến đã được Thanh Hải gửi gắm qua bài thơ “mùa xuân nho nhỏ”. Tuy là tác phẩm được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời nhưng bài thơ vẫn để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng khó phai mờ. Và, Bài thơ vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ một cách sống đẹp: góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc, để đất nước ta sẽ mãi tươi đẹp như trong tiết xuân. Thế mới biết, cuộc đời của con người thì có hạn nhưng những giá trị tinh thần mà con người để lại cho đời sau thì có giá trị vĩnh hằng.
Phân tích 3 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 5“Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980. Đây là thời điểm tác giả Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh, chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo cũng là đối mặt với cái chết đang hiện hữu cận kề. Tuy vậy, qua con mắt của thi nhân và khối óc tưởng tượng của một con người yêu thiên nhiên, cảnh vật sâu sắc, Thanh Hải đã sáng tạo nên những vần thơ thật ý nghĩa. Ngay ở khổ thơ đầu tiên đã toát lên được tình yêu thiên nhiên đất trời mãnh liệt:
Khổ thơ như một bức tranh thiên nhiên đầy sắc xuân. Đó là bức tranh có những nét chấm phá, phác họa vô cùng tinh tế. Từ “mọc” xuất hiện ngay từ đầu câu thơ cho ta một ấn tượng mạnh. Một động từ mạnh xuất hiện như thể hiện sự vươn dậy, sự khỏe khoắn, một sức sống như tiềm tàng bí ẩn bỗng chốc vụt trỗi dậy. Người đọc đặt ra câu hỏi “Cái gì Mọc giữa dòng sông xanh”? Điều này gây tò mò đối với độc giả thì ngay lập tức, câu thơ thứ hai đã giải đáp điều ấy: “Một bông hoa tím biếc”. Hai câu thơ có sử dụng biện pháp đảo ngữ. Lẽ ra phải là:
Việc đảo ngữ có tác dụng giúp câu thơ thêm phần đặc biệt, ấn tượng. Hai câu thơ gợi cho ta thấy với không gian mênh mông trời nước, giữa dòng sông với làn nước trong xanh, bỗng nhiên mọc lên một bông hoa. Bông hoa ấy có màu sắc tím biếc. Tuy không phải là sắc màu đỏ rực như đỏ, xanh ngắt mà là màu tím biếc. Màu tím làm nên sự thơ mộng, nhẹ nhàng, làm nên sắc xuân. Đó là vẻ đẹp tinh khôi, sáng trong mà cũng rất đỗi mộng mơ. Đó là màu tím của hoa, của thiên nhiên hay chính là sự tượng trưng cho xứ Huế thơ mộng. Trên nền xanh của dòng sông, màu hoa tím biếc, tưởng chừng như bức họa ấy tĩnh lại. Nhưng ngay sau đó là sự xuất hiện của tiếng động:
Advertisement
Trên bức tranh ấy có tiếng chim hót vang trời. Với thán từ gọi đáp “Ơi” mang đến sự gần gũi, đậm ngôn ngữ Huế. Ngôn ngữ ấy mang đến sự nhẹ nhàng, tình cảm và có nét vô cùng đáng yêu. Tiếng chim hót làm cho bức tranh chuyển trạng thái từ tĩnh sang động. Mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là một nét đẹp đằm thắm, nhẹ nhàng, mơn man, trong sáng và đầy tinh khôi. Tất cả đều đang ở độ tràn trề sức sống. Trước vẻ đẹp thiên nhiên ấy, tác giả không khỏi bộc lộ rõ nét cảm xúc của bản thân:
“Giọt long lanh” ở đây được hiểu với rất nhiều nghĩa khác nhau. Đó có thể là giọt sương trong buổi sớm ban mai, giọt mưa còn vương lại trên mái hiên hè sau mỗi trận mưa rả rích đêm khuya hay đó cũng có thể là giọt mang ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc, cho sức sống tràn đầy. Với sự chuyển đổi cảm giác linh hoạt trong câu thơ đã đem lại sự thú vị cho câu thơ. Câu thơ cuối của đoạn đầu bài thơ lại diễn tả rõ nét hơn cảm giác ấy: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Động từ “hứng” gợi cho ta thấy sự trân trọng. Sự trân trọng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời.
Bài thơ tiếp tục với những cảm xúc trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên tươi xanh, gieo vào lòng người sức sống tràn trề của hoa tươi, cỏ biếc. Từ vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, đất trời, nhà thơ nghĩ ngợi về mùa xuân của đất nước, mùa xuân trong lòng người:
Mùa xuân của đất nước với hai hình ảnh rõ nét nhất là “người cầm súng”, “người ra đồng”. Hai hình ảnh ấy biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và lao động xây dựng đất nước. Một mặt, ý thơ nói lên một tinh thần yêu nước của mỗi con người; mặc khác, ý thơ cũng khắc họa rõ hình ảnh các chiến sĩ và các nông dân vẫn miệt mài làm việc chỉ mong đất nước được bình yên và gia đình được ấm no. Mượn ảnh “lộc” non của mùa xuân nhằm ca ngợi người cầm súng, người ra đồng quả thực rất mới lạ, tinh tế và tài tình của nhà thơ.
Có phải mùa xuân của đất trời đọng lại trong hình ảnh lộc non đã theo “người cầm súng”, “người ra đồng” hay chính là họ đã đem mùa xuân đến mọi nơi trên đất nước? Con người, trong cuộc sống lao động và chiến đấu đang góp phần làm nên một mùa xuân yên ổn, ấm no cho dân tộc. Không khí mùa xuân với nhịp điệu vừa hối hả vừa những âm thanh con xao. Một không khí khẩn trương lại sôi động của cuộc sống mới. Đất nước đã độc lập nhưng kẻ thù vẫn còn âm mưu phá hoại. “Cầm súng” và “ra đồng” khẳng định tư thế chủ động, tinh thần sẵn sàng của nhân dân trước kẻ thù. Cuộc đời đã đổi mới nhưng khó khăn, gian khổ vẫn còn. Đất nước vẫn cần nhiều cống hiến, nhiều hy sinh hơn nữa để vươn lên.
Chắc chắn rằng, hình ảnh “lộc” kia là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân cần cù,hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành quả hôm nay và niềm tin, hy vọng ngày mai. “lộc” cùng chính là niềm vui mới của con người trong mùa xuân tràn trề niềm vui và sức sống, là niềm tự lớn lao, là khát vọng cống hiến, hy sinh để giữ vững mùa xuân của dân tộc.
Sau bao nhiêu năm tháng vất vả, đau thương, hôm nay, dân tộc ta đón chào mùa xuân bằng một tấm lòng yêu nước nồng nhiệt. Mỗi con người yêu nước một cách sâu sắc, xem đất nước như một điều gì đó thiêng liêng quá thể:
“Bốn nghìn năm” vĩnh tồn, đất nước như những vì sao càng ngắm nhìn càng thấy tỏa sáng, càng thêm tự hào. Một quá trình vất vả và gian lao để có thể tồn tại lâu như thế. Ta cũng có thể hiểu rằng tác giả mong muốn đất nước ta sẽ có một tầm nhìn lạc quan và tươi sáng. Mong muốn rằng tương lai đất nước sẽ ngày một tỏa sáng hơn. Câu thơ “Cứ đi lên phía trước” nghe thấy cứ như một câu khuyên nhủ ta cứ bước đi. Chỉ cần một câu nói ấy đã có thể khích lệ tinh thần cho các chiến sĩ bên ngoài chiến trường. Điều đó cũng thể hiện dân tộc Việt Nam yêu nước một cách sâu sắc và cũng biết quan tâm tới nhau. Tình cảm giữa người với người đã được hiện hữu đâu đây. Đó là một điều tuyệt vời mà Thanh Hải đã ẩn chứa trong bài thơ. Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ cá nhân nào vội vã mà cả đất nước đang hối hả, khẩn trương sản xuất và chiến đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm.
Qua lời thơ giản dị mà đằm thắm yêu thương, dạt dào tin tưởng, ta cảm nhận được niềm tấm lòng gắn kết của tác giả với tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm đến vô ngần. Hai khổ thơ đã khắc họa nên một khung cảnh mùa xuân tươi xanh trong thời kỳ chiến đấu cực khổ. Biết bao năm tháng trôi đi nhưng ta vẫn cứ mãi lưu luyến mùa xuân. Một mùa xuân hạnh phúc cuốn trôi hết tất cả nỗi muộn phiền của mỗi con người. Đó là khúc ca đầy tin tưởng vào nhân dân và tương lai đất nước của nhà thơ trong những ngày tháng cuối của cuộc đời.
Phân tích 3 khổ đầu bài mùa xuân nho nhỏThanh Hải là bút danh của nhà thơ Phạm Bá Ngoãn, quê thuộc Phong Điền – Thừa Thiên Huế. Ông là nhà văn tài hoa, là người có công lớn trong việc thắp sáng ngọn lửa thi ca thời kì kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông thường giàu âm điệu, nhạc điệu, cảm xúc, ngôn ngữ trong sáng, chân thành và lắng đọng. Thơ thanh hải thường ngắn gọn chứ không dài dòng nhưng lại diễn tả nội tâm rất sâu sắc, nhiều ý nghĩa. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ hay để lại cho đời. Một trong những tác phẩm thơ ca nổi bật nhất phải kể đến bài Mùa Xuân Nho Nhỏ với giọng thơ nhẹ nhàng, tinh tế, lời thơ ngắn gọn gọn xúc tích nhưng nhiều cảm xúc. Nhất là 3 khổ đầu bài thơ nói về mùa xuân, con người và đất nước rực rỡ trong mùa xuân.
Khổ đầu tiên bài thơ, thanh hải miêu tả về mùa xuân xứ Huế, mùa xuân độc lập đầu tiên của đất nước, mùa xuân hiện lên với khung cảnh vô cùng thơ mộng nhẹ nhàng:
Hình ảnh đầu tiên mà chúng ta cảm nhận về mùa xuân trong thơ thanh hải là màu sắc. Màu sắc trong thơ thanh hải cũng rất lạ. Đó là màu xanh của dòng sông và mùa tím biếc của bông hoa. Không phải là một rừng hoa, một vườn hoa thơm ngát đủ sắc màu mà chỉ là một bông hoa màu tím biếc vô cùng đặc biệt. Ta cảm giác bức tranh trong xanh đẹp vô ngần với dòng sông xanh biếc mùa xuân, hiện lên đó là một bông hoa giữa dòng sông ấy với màu tím biếc vô cùng ấn tượng. Một số bài giảng cho rằng đó là hoa súng, một số cho rằng đó là hoa lục bình. Tuy nhiên, hiểu thê thì cũng chưa hoàn toàn đung, bởi vì song hương lúc nào cũng tấp nập thuyền qua lại, làm sao có một bông hoa mọc lạc lõng giữa dòng sông như vậy? Phải chăng, bông hoa đó chính là hình ảnh của một cô gái đẹp mặc áo dài Huế màu tím. Đây là màu rất đặc trưng ở Huế. Chính vì hình ảnh này mà đã tạo nên cảm hứng sáng tác cho bài thơ chăng? Nếu hiểu như thế thì sẽ thấy bức tranh có sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên rất đẹp, rất hài hòa, làm cho màu sắc thiên nhiên càng thêm lung linh huyền diệu.
Nếu như chúng ta cảm nhận hình ảnh thiên nhiên hai câu đầu là sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên chúng ta sẽ càng hiểu vì sao hai câu sau tác giả lại muốn đưa tay ra hứng. Chúng ta có thể hiểu hành động đưa tay ra hứng là hứng từng tiếng chim vì ở trên là hình ảnh tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Nếu hiểu như thế thì chúng ta sẽ thấy có sự chuyển đổi cảm giác ở đây. Đó là từ cảm nhận âm thanh chuyển sang cảm nhận hình khối, từng giọt long lanh chính là hình khối, là màu sắc huyền ảo. Có lẽ đây chính là sự liên kết chuyển đổi cảm xúc rất hay mà chỉ có Thanh Hải mới nghĩ ra được. Kết cấu thơ rất chặt chẽ, liền mạch, có ánh sáng, màu sắc có cả âm thanh và hình khối. Con người không chỉ sử dụng thị giác, thính giác mà còn phải sử dụng xúc giác để cảm nhận mọi vẻ đẹp của mùa xuân.
Không chỉ tác giả đang ngây ngất giữa mùa xuân mà người đọc cũng đang ngây ngất trước vẻ đẹp mùa xuân qua ý thơ. Đất trời như hòa vào mùa xuân ngập tràn màu xanh, tiếng hát và cảm xúc. Đọc đoạn thơ đầu tiên ta cảm thấy như một khúc nhạc rất hay, cảm xúc, một khúc nhạc về bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, với màu sắc hài hòa, âm thanh nhịp nhàng, hình khối rõ ràng, cảm xúc thăng hoa.
Nếu khổ thơ đầu là nói về mùa xuân, cảm nhận của nhà thơ về mùa xuân, thì sang khổ thơ thứ hai chúng ta cảm thấy mùa xuân thực sự đã về, ngập tràn trên khắp nẻo đường, con người. Đặc biệt mùa xuân qua hình ảnh người lính, và người lao động:
Đây chính là mùa xuân đầu tiên của đất nước khi giải phóng, mùa xuân hạnh phúc và mùa xuân tri ân. Đó là tri ân những người lính và những người lao động. Họ chính là hai lực lượng lớn nhất và đóng góp nhiều nhất cho cuộc kháng chiến trường kì. Chính họ đã góp phần lớn lao tạo nên lịch sử. Ta có thể hình dung ra hình ảnh người lính với những cành cây dắt ngang lưng đang đâm chồi nảy lộc, đó là sự ngụy trang trong chiến trường, nơi rừng núi nhưng nó cũng là hình ảnh mùa xuân thật đẹp, cảm động và ý nghĩa. Ta cũng nhìn thấy hình ảnh mùa xuân trải dài khắp cách đồng xanh mướt thấp thoáng bóng dáng những người lao động. Mùa xuân trở nên thật sinh động gần gũi với con người và thiên nhiên, mùa xuân trở nên đầy ý nghĩa và trọn vẹn.
Trong khung cảnh mùa xuân ấy, tác giả đưa vào những từ láy như “hối hả” “xôn xao” khiến cho bức tranh trở nên sinh động, vội vã hơn bao giờ hết. Có lẽ đó chính là cảm xúc của con người trước mùa xuân lịch sử. Ai cũng hối hả, cũng xôn xao, ai cũng háo hức vui vẻ hạnh phúc và chờ đợi.
Từ hình ảnh con người tác giả chuyển ngòi bút mình sang cảm nhận mùa xuân của đất nước. Không chỉ con người mà đất nước cũng chuyển mình, cũng đang ngập tràn mọi trạng thái cảm xúc của hạnh phúc. Đất nước dưới ngòi bút của Thanh Hải vô cùng cũng mạnh mẽ, dù trải qua nghìn năm vất vả gian lao nhưng vẫn không ngừng tiến về phía trước với một niềm tin mãnh liệt. Đất nước Việt Nam đã từng phải oằn mình đau khổ nghìn năm đô hộ của Trung Quốc, chịu sự dày vò cùng cực của thực dân, đế quốc, giờ đây chúng ta có thể tự hào hái trái ngọt, có thể đón mùa xuân độc lập, tự do của dân tộc, đất nước đã được giải phóng, dân tộc đã rũ bùn đứng dậy. Hiểu được lịch sử quá khứ ta mới càng trân trọng hạnh phúc của hôm nay, ta mới thấy được mùa xuân của dân tộc ngày hôm nay ý nghĩa thế nào. Mùa xuân ấy đã phải đánh đổi bằng sự hi sinh, bằng máu và nước mắt, với một khối đồng lòng về tinh thần quật cường của một dân tộc tự cường.
Qua đây cũng cho thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của tác giả vào sự phát triển thịnh vượng đi lên của đất nước. Đất nước sẽ luôn đi lên, sẽ sáng như những vì sao không bao giờ bị dập tắt.
Với ba khổ đầu bài thơ tác giả đã vẽ ra một bức tranh mùa xuân thật tuyệt vời với cảnh sắc thiên nhiên độc đáo nơi xứ huế và con người Huế, với tình cảm biết ơn những người lính, người lao động họ đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Đồng thời ba khổ đầu bài thơ cũng thể hiện niềm yêu quê hương tha thiết, muốn được gắn bó và cống hiến cho đất nước.
Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Bài Thơ Nhớ Đồng Của Tố Hữu (Dàn Ý + 5 Mẫu) Những Bài Văn Hay Lớp 11
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Tố Hữu
Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất.
Ông là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
– Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích
Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.
2. Thân bài
a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù
– Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò.
Tiếng hò được lặp lại nhiều lần. Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữa trời trưa → nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh
– Lòng người đang bị giam cầm trong tù ngục cách biệt với cuộc sống bên ngoài
– Tiếng hò đã đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh → Người chiến sĩ cách mạng thấy nhớ nhung da diết đồng quê, cuộc sống bên ngoài nhà tù.
Tiếng than khắc khoải, da diết → diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài → nỗi hiu quạnh của người tha thiết yêu đời.
Sự lặp lại → nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng → triền miên vì nỗi nhớ da diết.
– Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả:
Cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen. → Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương → bị ngăn cách.
– Con người gần gũi thân thuộc thân thương:
Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc → linh hồn đã khuất.
– Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến
– Nhớ đến bản thân mình:
Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng.
“Rồi một …ngát trời”
→ Say mê lý tưởng, khao khát tự do sôi nổi ⇒ càng cảm thấy cô đơn với thực tại cuộc sống bị giam cầm.
b. Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu
– Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:
Từ tiếng hò gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đậm đà với: cồn thơm, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng, con đường thân thuộc → những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thương nay đã trở nên xa cách.
Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người → người mẹ già nua → nhớ chính mình
Nỗi nhớ trải dài từ hiện tại trở về quá khứ → hiện tại
⇒ nhớ, tràn ngập xót thương → không chỉ buồn đằng sau là nỗi phẫn uất, bất bình với thực tại ⇒ niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.
3. Kết bài
Đây là bài thơ hay, giàu cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ khao khát tự do và hành động. Nỗi nhớ đồng quê, con người, chính mình biểu hiện tình yêu da diết với cuộc sống bên ngoài nhà tù và bao trùm hơn hết là tình yêu Tổ quốc, khát vọng tự do.
Lựa chọn hình ảnh gần gũi, quen thuộc, giọng thơ da diết, khắc khoải trong nỗi nhớ
Tố Hữu – một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông được kết nạp đảng năm 1938 thì đến năm 1939 trong quá trình hoạt động đã bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ, hoạt động cách mạng hăng say và nhiệt huyết là thế nhưng lại bị bắt giam nên trong quá trình bị giam cầm ông đã sáng tác một tập thơ mang tên “Từ ấy”, bài thơ “Nhớ đồng” nằm trong phần “Xiềng xích” của tập thơ nói về tâm trạng nhớ quê hương, cách mạng của ông những ngày tháng sống trong trại giam.
Trong hoàn cảnh bị giam cầm tù hãm, người chiến sĩ cộng sản không tránh khỏi những u buồn, nhớ thương, chính tiếng hò vang vọng đâu đó đã đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người tù. Giữa không gian đồng không mông quạnh trưa nắng, một con người lẻ loi, cô độc đang bị giam cầm tách biệt với cuộc sống bên ngoài.
“Gì sâu bằng” ấy là nói về nỗi nhớ sâu thẳm trong cõi lòng tác giả, điệp từ “đâu” ở đầu suốt năm câu thơ như là nỗi day dứt tìm kiếm trở về với cuộc sống khi xưa, tìm kiếm sự yên bình nơi quê hương trong sự ngậm ngùi:
Bức tranh cuộc sống sinh hoạt làng quê thân thương và rất đỗi bình dị hiện ra trước mắt người tù cộng sản, chỉ là tưởng tượng thôi nhưng nó sống động và tuyệt đẹp, giàu xúc cảm biết bao. Không chỉ là cảnh đồng lúa, khóm tre, nương rẫy hay những mái nhà tranh, ở trong tâm tưởng của nhà thơ còn có con người, những người nông dân cơ cực vất vả nhưng ấm áp tình người.
Đâu đó còn là bóng dáng của người mẹ thương nhớ càng siết chặt thêm nỗi khắc khoải khôn nguôi của nhà thơ, tác giả như chìm đắm, say trong những cơn nhớ nhung không dứt “Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ…” từng lời như đang than thở vì sự bất khả kháng với hoàn cảnh của chính mình, không thể thoát ra để giải tỏa nỗi lòng. Người chiến sĩ trẻ nhớ về những ngày đầu đến với lý tưởng cách mạng và thời hoạt động cách mạng tự do của mình:
Trước là nhớ về quá khứ tối tăm ngột ngạt của mình để như khẳng định hơn sự sáng suốt và đúng đắn, niềm hạnh phúc khi tìm được lý tưởng cách mạng, và rồi tác giả tự cho mình những giây phút say trong niềm khao khát hoạt động cách mạng ấy, tâm trạng u buồn bỗng nhiên được tưới mát trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, “Nhẹ nhàng như con chim cà lơi”, cánh chim tượng trưng cho sự tự do tự tại và tác giả đang ví mình là những con chim đó, say trong đồng hương nắng như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng. Nhưng dù có cố gắng cách mấy nhà thơ cũng không tránh khỏi sự đối mặt với thực tại bị giam hãm trong lao tù, hai câu thơ kết lặp lại y nguyên hai câu thơ đầu, nhấn mạnh sự bất lực, bế tắc không có lối thoát. Mặc dù vậy tư tưởng hướng về quê hương và cách mạng vẫn còn đó, khát vọng về một ngày được tự do được hoạt động cách mạng vẫn luôn cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản.
Qua bài thơ “Nhớ đồng” người đọc không chỉ cảm nhận được một tình yêu quê hương tha thiết của Tố Hữu mà còn thấy hiện lên một người chiến sĩ cộng sản yêu lý tưởng cách mạng, yêu đất nước và khát vọng tự do hành động, hy sinh vì Tổ quốc.
Bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu được lấy cảm hứng từ một tiếng hò thân thuộc của quê hương và tiếng hò ấy trở thành mạch cảm xúc của bài thơ.
Về mặt hoàn cảnh trữ tình, khi nghe một tiếng hò vọng lên lẻ loi, đơn độc giữa trời trưa, thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh, và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Đó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh: hiu quạnh của không gian đồng vắng, của thời gian trưa vắng, của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn và hiu quạnh ngay trong lòng người đang bị giam cầm giữa bốn bức tường đá, cách biệt với cuộc sống bên ngoài.
Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu thăm thẳm mà mình đang trải nghiệm. Cũng là tiếng kêu của một triết lí về nỗi quạnh hiu cùng cực, không gì có thể sánh nổi này! Qua đó, người ta thấy được một cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nổ là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời.
Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại trước hết có tác dụng liên kết. Lặp và điệp từ là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch ý. Nhưng quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại này bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp từ tạo ra một nhịp điệu luân hồi, triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu.
Đồng quê hiện lên rất đậm nét qua nỗi nhớ của tác giả. Đó là những cảnh sắc như đồng ruộng với những cồn thơm, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai sắn ngọt bùi; xóm nhà chìm lặng, con đường mòn mỏi theo năm tháng. Tất cả đều là những cảnh sắc đơn sơ quen thuộc mà rất đỗi thân thương. Là những bóng dáng người lao động lam lũ, nhọc nhằn, và nhất là bóng dáng người mẹ già đơn chiếc – những kiếp người muôn đời gắn bó với đất đai. Họ chất phác và bền bỉ như đất đai.
Tóm lại, Nhớ đồng là nhớ toàn bộ cuộc sống bên ngoài mà giờ đây đã trở nên cách biệt đối với người chiến sĩ bị tù đày.
Nhớ đồng là một tâm trạng khá chân thực và trọn vẹn với những diễn biến tự nhiên, liền mạch. Nỗi nhớ bắt đầu dâng lên khi nghe thấy tiếng hò. Tiếng hò gợi dậy tất cả những gì của thế giới đồng quê bên ngoài. Đầu tiên là nhớ những cảnh sắc, rồi nhớ đến những bóng dáng con người: từ những người lao khổ trên đồng đến hình bóng thân yêu nhất là người mẹ già nua đơn chiếc. Rồi nhớ về chính mình những ngày chưa bị giam cầm, tóc đang được tung hoành trong bầu trời tự do bát ngát. Cuối cùng khi trở lại với thực tại bị giam cầm, trong lòng tác giả trĩu nặng một nỗi nhớ triền miên.
Nỗi nhớ bắt đầu từ hiện tại đi ngược về quá khứ rồi cuối cùng lại trở về hiện tại; từ thực tại giam cầm ngược về thuở tự do rồi lại trở về với thực tế giam cầm. Nó không chỉ có nhớ nhung mà còn tràn ngập xót thương, không chỉ có buồn rầu thương nhớ cuộc đời mà còn cháy bỏng niềm khao khát tự do. Và quan trọng hơn, bên dưới tâm trạng ây là một nỗi bất bình, phẫn uất với thực tại.
Bài thơ mang tên Nhớ đồng nhưng cảm xúc và hình ảnh không dừng lại ở nỗi nhớ đồng, mà đó còn là sự nhớ thương cuộc sống, nỗi lòng khao khát tự do và bất bình với thực tại.
Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.
Tháng 7 năm 1939 Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.
“Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:
Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.
Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:
Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê hương. Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con người, mùi hương, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.
Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:
Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phẩm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.
Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:
Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi“. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.
Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan. Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên. Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.
Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.
Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến. Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.
Tiếng thơ cất lên trong ngục tù, vọng nỗi niềm khắc khoải thiết tha của chàng thanh niên 19 tuổi Tố Hữu hướng về cuộc sống tự do, tất cả những hình ảnh, cảm xúc hòa quyện làm thành một nỗi nhớ gắn kết nhà thơ với thế giới bên ngoài. Nhớ đồng viết trong phần “Xiềng xích” của tập thơ “Từ ấy”, trong cái im ắng không gian trưa để tác giả nghe tiếng vọng lòng mình rõ nhất.
Dấn thân vào chốn lao tù khi tuổi đời còn quá trẻ, Tố Hữu mở đầu phần “Xiềng xích” với Tâm tư trong tù, cảm nhận rõ hoàn cảnh mất tự do, xác định ý chí sắt đá của người chiến sĩ, tự động viên mình vượt lên nghịch cảnh, tách biệt lí trí và tình cảm có phần cực đoan và bồng bột. Nhưng đến Nhớ đồng, ta bắt gặp một Tố Hữu hoàn toàn khác, có sự chín chắn hơn sau những thử thách đầu tiên. Nếu không hiểu hoàn cảnh này, ta cứ ngỡ bài thơ mang tâm trạng của một khách tha phương vọng về cố xứ! Cũng dễ hiểu thôi, khi Tố Hữu làm thơ cũng là lúc Thơ Mới đang chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn, là một người trẻ tuổi yêu thơ, chắc chắn nhà thơ dễ cảm được nỗi lòng của những bạn trẻ đồng trang lứa. Có ngẫu nhiên chăng khi bị lâm vào cảnh tù hãm, Tố Hữu lại viết một loạt những “Nhớ người”, “Nhớ đồng” như một cách cắt nghĩa khác với “Nhớ rừng” của Thế Lữ – thác lời con hổ trong cảnh sa cơ nhớ thời oanh liệt! Cũng là nhớ, nhưng nhà thơ lãng mạn để cho nỗi nhớ khơi dậy niềm kiêu hãnh và nỗi ngậm ngùi thân phận cá nhân, đề cao và khẳng định vị thế của cái Tôi. Còn Tố Hữu thông qua nỗi nhớ, xác lập các mối liên hệ với thế giới bên ngoài, thấm thía cả vẻ đẹp và nỗi buồn cuộc đời, gửi gắm tình yêu cuộc sống và cũng là nhận thức của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, vừa da diết bâng khuâng vừa hăm hở sôi nổi. Có một cái Tôi – chiến sĩ và thi sĩ – càng lúc càng đằm thắm, đầy tinh thần lạc quan tin tưởng vào lý tưởng, trên tinh thần “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”!
Sau khoảnh khắc cảm nhận “gì sâu bằng” như một cách cắt nghĩa lòng mình, ùa về trên những dòng thơ của Nhớ đồng là bao hình ảnh ngồn ngộn sức sống của đồng quê quen thuộc:
Không gian sau nỗi nhớ thật bình dị thân thuộc, khắc khoải một tâm trạng kiếm tìm, nuối tiếc, trân trọng những vẻ đẹp của nhà thơ. Làng quê hiện về trong kí ức với hương của đất, bóng mát lũy tre làng, sắc xanh nao lòng của mạ và vị ngọt bùi khoai sắn gợi một cảm giác thật bình yên, đáng yêu đáng quí. Cái nhìn từ tâm trạng của một người bị mất tự do thật thấm thía khi “một tiếng hò” vọng vào làm hiện lên bao hình ảnh cuộc sống bên ngoài càng gợi nhớ gợi thương. Và nhà thơ còn cảm nhận được cái “hiu quạnh” của những cuộc đời quẩn quanh tù túng, lặng lẽ trôi đi trong nhịp đời day dứt buồn thương:
Có đáng buồn không những thân phận lầm lũi sau lũy tre làng, những cuộc đời chìm trong bóng tối mang theo cả cái ngột ngạt của cuộc sống “âm u”, gợi tình cảnh đất nước chìm đắm trong kiếp nô lệ! Cái “hiu quạnh” không phải do tác động từ không gian ngoại cảnh mà bắt nguồn từ nhận thức của người chiến sĩ đã dấn thân trên con đường cách mạng, nhận ra bi kịch của dân tộc mình, đồng bào mình! Niềm thương cảm cho những cuộc đời “không đổi nhưng mà trôi cứ trôi” như quặn thắt trong lòng nhà thơ, như một sự chia sẻ ngậm ngùi. Bức tranh cuộc sống trong “nhớ đồng” đâu chỉ là vẻ đẹp mà còn là ám ảnh nỗi niềm tâm sự của người dân mất nước, man mác như một khúc Nam ai xứ Huế.
Nỗi buồn thương vẳng vào từ câu hò, làm thành tiếng vọng từ trong lòng nhà thơ hướng ra bên ngoài tha thiết: “Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh – Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!”. Phải chăng nhà thơ đang cất lên “tiếng gọi đàn”, đánh thức những hồn đồng điệu? Trân trọng biết bao những vần thơ cảm nhận về vẻ đẹp con người làm nên cuộc sống:
Tình cảm gắn bó con người xuất phát từ nhận thức về mối liên hệ giữa người chiến sĩ với quần chúng cách mạng. Khổ thơ bộc bạch vẻ lạc quan, thi hứng gợi nhắc vần thơ trong “Mùa gieo hạt, buổi chiều” của nhà thơ lãng mạn Pháp V. Hugo:
(Xuân Diệu dịch)
Khổ thơ của Tố Hữu không đơn độc một bóng hình ông lão, mà khái quát hình ảnh “những lưng cong xuống luống cày” – hình ảnh con người nhân dân giản dị mà vĩ đại với cuộc đời cần lao thắp lên niềm hy vọng tương lai, “vãi giống tung trời những sớm mai”! Có ngẫu nhiên chăng sự gặp gỡ trong hình ảnh biểu tượng “bàn tay” gieo hạt của nhà thơ lãng mạn Pháp và người chiến sĩ trẻ Tố Hữu? Phải mở lòng ra với cuộc sống, mới nói lên hết được tình yêu và niềm tin ở con người tha thiết vậy. Giữa những nông dân trên cánh đồng cần mẫn và người chiến sĩ đấu tranh vì cái đẹp cuộc đời, đã có sự đồng cảm của người gieo mầm cho một tương lai tốt đẹp!
Điệp khúc “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ…” lại cất lên, sau những hình ảnh đầy xao xuyến về cuộc sống: chiều sương phủ bãi đồng, lúa mềm xao xác, những nhịp điệu những âm vang “tiếng xe lùa nước” hòa với “một tiếng hò” như miết vào tâm khảm, làm nỗi nhớ như sâu hơn, lắng đọng hơn! Có lẽ đến lúc này nhà thơ mới thật thấm thía cảm giác của một người bị giam hãm trong bốn bức tường xà lim để hiểu rõ giá trị cuộc sống tự do lớn lao biết chừng nào! Những khổ thơ tiếp nối có sự chuyển mạch cảm xúc, vọng về nỗi niềm riêng tư. Nhà thơ lưu luyến tiếc nhớ, khắc ghi những bóng hình cuộc sống vào trái tim nhạy cảm của mình, khi thực tại chỉ có một mình đối diện không gian quạnh quẽ của nhà lao:
Ta chợt phát hiện ra giây phút yếu lòng nhất của chàng trai Tố Hữu! Nhưng đó là tâm trạng hoàn toàn hợp lý, khi con người bị bủa vây bởi nỗi cô đơn, sự vắng lặng thì càng khắc khoải nhớ về người thân yêu, đặc biệt là người mẹ như muốn tìm một chốn chở che, để được vỗ về yêu thương. Thú vị hơn là trong khổ thơ này, ta gặp nỗi niềm từng cất lên trong Thơ Mới “Chao ôi mong nhớ, ôi mong nhớ – Một cánh chim thu lạc cuối ngàn” (Chế Lan Viên). Quả thật, thơ Tố Hữu “thoát thai từ Thơ Mới” nhưng tinh thần thì hoàn toàn khác. Nỗi nhớ sau tiếng than “chao ôi…” của nhà thơ là “mẹ già xa đơn chiếc” rất cụ thể, rất đời thường và tạo cảm giác gần gũi thân thiết chứ không phải là một bóng hình tan biến vụt bay vào hư vô như câu thơ của họ Chế! Mẹ ở đây còn là quê hương, là những gì thiêng liêng nhất, sâu thẳm nhất bền chặt nhất của đời người. Câu thơ còn làm ta hiểu sâu sắc về tâm hồn người cộng sản. Để rồi từ mẹ quê, nhà thơ lại nhớ về những người “chất phác”, “thật thà” mang theo hồn quê, tình quê hương đất nước. Những hình ảnh thật cảm động ấy không còn thuộc về thế giới ngoại cảnh mà đã thật sự thành máu thịt, tâm hồn nhà thơ, Để rồi, chính những tình cảm ấy những con người ấy đem lại cho nhà thơ nguồn sức mạnh, sự tỉnh táo nhìn lại chính mình, khẳng định một sự chọn lựa dứt khoát và đúng đắn. Hai khổ thơ nói về bản thân là sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, tràn đầy niềm hạnh phúc được hòa nhập với những quần chúng lao khổ:
Đó cũng là lúc nhà thơ bộc bạch trọn vẹn nhất cái tôi của mình. Không phải là một cái tôi buồn, cô đơn và yếu đuối như các thi sĩ lãng mạn đồng trang lứa mà là cái tôi tràn đầy tình yêu và niềm tin với cuộc đời. Hình ảnh thơ tái hiện lại khoảnh khắc xúc động và thiêng liêng khi nhà thơ đứng vào đội ngũ chiến đấu: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ – Mặt trời chân lí chói qua tim…”. Không còn những do dự, “vẩn vơ”, “quanh quẩn” của thuở “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” mà thực sự nhà thơ đã trưởng thành, vững vàng một niềm tin, sẵn sàng chiến đấu cho lí tưởng. Dẫu cho thực tại, nhà thơ phải chịu cảnh tù đày, nhưng vẫn “mơ qua cửa khám bao ngày”, hướng lòng mình về cuộc sống tự do, dẫu có chút ngậm ngùi “như cánh chim buồn nhớ gió mây” nhưng vẫn ánh lên một khát vọng được tung cánh, được bay nhảy trong vùng trời tự do.
Bài thơ Nhớ đồng mang theo âm hưởng của một điệp khúc tâm trạng da diết nhớ thương con người và cuộc sống, làm nên những cung bậc trạng thái tình cảm của nhân vật trữ tình phong phú đa dạng. Thực chất của “nhớ đồng” là nhớ những mối dây liên hệ với cuộc đời, là lời tự nhắc nhở động viên mình của nhà thơ, trong hoàn cảnh lao tù. Giọng thơ khắc khoải, thấm đượm những ân tình sâu nặng của con người hiểu rõ và yêu mến đất nước, nhân dân, khao khát tự do. Chính cuộc sống giản dị, con người chất phác đã đem lại cho nhà thơ sức mạnh tinh thần, lạc quan trước hoàn cảnh, vững vàng trong thử thách đầu đời. Cái đáng quý nhất là chất trẻ trung, tươi mới của hồn thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng, lí trí và tình cảm hòa quyện giúp ta hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ, tiêu biểu cho tinh thần của những chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.
Những vần thơ như vậy trong Nhớ đồng nói riêng và tập thơ Từ ấy nói chung giúp ta thêm hiểu và trân trọng thế hệ cha anh, sẽ mãi còn vang ngân trong lòng các thế hệ tương lai.
Tố Hữu (1920 – 2002) xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Cuộc đời Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông đã đóng góp cho nền văn học việt Nam đặc biệt vào thời kì cách mạng, thơ của ông mang tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại. Những tác phẩm của Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần dân tộc. Ông xứng đáng là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Nhớ đồng là một trong số những bài thơ tiêu biểu phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đồng bào, đồng chí Những tâm tư ấy được thể hiện trong bài thơ Nhớ đồng một cách thâm trầm, da diết. Qua bài thơ Nhớ đồng đã góp phần cụ thể hóa thành nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.
Advertisement
Cả bài thơ có thể chia làm bốn đoạn,ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ sâu sắc kết thúc bằng câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng. Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.
Bằng những biện pháp nghệ thuật độc đáo khác nhau, nỗi nhớ đó trải dài xuyên suốt cả bài thơ, bắt đầu với biện pháp sử dụng những câu hỏi tu từ ở cuối mỗi khổ thơ: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới góp phần thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù,mong ngóng được trở về từng ngày.
Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định rằng có một thứ gì, không có một cái gì, không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam. Tố Hữu đã sử dụng những câu hỏi tu từ kết hợp với tính từ mang tính chất mãnh liệt khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Câu hò quen thuộc của xứ Huế là cái cớ gọi về nỗi nhớ,nó giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù. Những âm thanh đó đã ăn sâu vào kí ức của chính tác giả, cũng giống như âm thanh của tiếng hò Huế, âm thanh của tiếng gà trưa của thơ Xuân Quỳnh cũng có lúc kéo nhân vật trữ tình về với những nỗi niềm thương nhớ như vậy. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy biết bao hình ảnh của cuộc sống giản dị mến thương trong tâm tưởng nhà thơ.
Năm từ “ đâu” xuất hiện trong mười câu thơ, giống như một sự tiếc nuối của tác giả những năm tháng xưa cũ,hiện tại đâu còn, chỉ là nhắc nhớ lại vậy thôi. ở đây bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương Giang hững hờ. Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp biết bao. Nhưng quê hương giờ đây chỉ còn sống trong tâm tưởng của tác giả, khi xung quanh là 4 bức tường của lao tù. Những câu hỏi trăn trở lặp đi lặp lại nhiều lần phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:
Câu cảm thán được sử dụng, như một tiếng lòng của tác giả, không thể để mãi trong lòng nên đành thốt lên: “ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!” . nhớ đến những trưa thương nhớ, đồng quê nhớ những thứ thân thuộc, tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực của những người nông dân cơ cực,nhưng họ không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những dáng hình thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt tái hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:
Bóng dáng quen thuộc hiện ra, mẹ già thương nhớ, những hôm mưa nắng dãi dầm, những mảnh tình người thân thiết ấm nồng, những hồn thơ thắm thiết, như thắt chặt sự nỗi nhớ da diết với các hình ảnh quen thuộc. Nhưng tất cả chỉ còn trong tưởng tượng:
Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Khiến người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này, bất lực với tâm trạng của mình,chẳng thể thoát ra ngoài.
Điều quan trọng sau tất cả nỗi nhớ đó là khi tác giả ngộ ra lí tưởng cách mạng:
Đó là những ngày tháng mà người thanh niên yêu nước băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Tưởng nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi được “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Tố hữu nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với biết bao kì vọng, lạc quan, để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động.
Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn. Cảm xúc chuyển từ nỗi nhớ quê hương nhớ hình ảnh quen thuộc và rồi cô đúc lại thành:
Nỗi nhớ mênh mang được ví với hình ảnh so sánh: Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện thần tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày. Cánh chim đó, cánh chim của tự do,của tình yêu quê hương,cánh chim bay vút lên để đón nhận lí tưởng cao đẹp
Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu đầu, tác giả đã sử dụng kết cấu vòng, và bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng và lan tỏa
Nhớ đồng là bài thơ góp phần diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản, đó là những cảm xúc hết sức chân thực, những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng cùng với đó là tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Từ chính những cảm xúc đó càng thôi thúc tác giả quyết tâm nung nấu ý chí để vượt lên khó khăn thách thức.
Văn Mẫu Lớp 9: Phân Tích Truyện Ngắn Những Ngôi Sao Xa Xôi (Sơ Đồ Tư Duy) 4 Dàn Ý &Amp; 18 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất
Phân tích Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê
Sơ đồ tư duy phân tích Những ngôi sao xa xôi (2 mẫu)
Dàn ý phân tích truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi (4 mẫu)
Phân tích truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi ngắn gọn
Phân tích truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi (16 mẫu)
Lung linh vẻ đẹp của Những ngôi sao xa xôi
Sơ đồ tư duy phân tích Những ngôi sao xa xôi Dàn ý phân tích truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi1. Mở bài
Giới thiệu truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của tác giả Lê Minh Khuê: truyện ca ngợi tinh thần dũng cảm của thế hệ trẻ trong những ngày kháng chiến, đặc biệt là sự hi sinh thầm lặng của các cô gái thanh niên xung phong.
2. Thân bài
a. Hoàn cảnh sống và chiến đấu của các nhân vật
– Ba cô gái trong tổ trinh sát sống trong hang, luôn theo dõi tình hình trên cao điểm.
– Công việc: đo khối lượng đất phải lấp vào hố bom, đếm và phá bom chưa nổ, bom nổ chậm.
⇒ công việc nguy hiểm, hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
b. Tính cách, tâm hồn của ba cô gái ở tổ đội trinh sát
– Ba cô gái hồn nhiên, mơ mộng, giàu tình cảm:
Phương Định hay hát, hay cười một mình; hay ngắm mình trong gương, tự đánh giá mình là một cô gái khá, có hai bím tóc dài đẹp, cổ cao kiêu hãnh, mắt dài, “có cái nhìn sao mà xa xăm”; làm ngơ trước sự trêu đùa, yêu mến của các anh chiến sĩ nhưng thực lòng luôn ngưỡng mộ các anh; có nhiều ước mơ, muốn sống nhiệt huyết, cống hiến
Nho: Tính nết trẻ con, thích ăn kẹo, có dáng vẻ bé nhỏ, nhẹ nhàng, nhưng rất bản lĩnh, rắn rỏ; ước mơ trở thành thợ hàn trong một nhà máy thủy điện lớn, chơi bóng chuyền giỏi.
Chị Thao: thích chép bài hát, chăm chút tỉa tót đôi lông mày, mong muốn được làm y sĩ, lấy được chồng là bộ đội.
– Cả ba đều hay nhớ về quê hương Hà thành: khi nhận được thư của bạn Nho, khi hát, khi suy nghĩ vu vơ, ngóng từng đoàn xe dưới xuôi đi qua để hỏi thăm tin tức.
– Mối quan hệ, tình cảm với đồng đội:
Họ yêu mến, quan tâm nhau như người thân.
Sự quan tâm, gắn kết của các đơn vị: tổ trinh sát làm việc trên cao xạ luôn báo cáo tình hình chính xác cho đơn vị phía dưới, đơn vị luôn sẵn sàng chi viện cho tổ (qua những lời nhắc nhở của đại đội trưởng).
c. Sự gan dạ, chất anh hùng của ba cô gái trong đội trinh sát
– Nghiêm túc trong công việc: Phương Định hay hát và nghĩ vẩn vơ, Nho thêu thùa, chị Thoa chép bài hát, nhưng khi có máy bay địch là tất cả ở tư thế sẵn sàng. Chị Thoa chỉ đạo, Phương Định và Nho được giao việc gì cũng hoàn thành.
– Tinh thần dũng cảm:
Phương Định: bình tĩnh, đàng hoàng bước tới quả bom chứ không đi khom, đào đất quanh bom có lúc lưỡi xẻng chạm trúng vào quả bom cũng không sợ.
Nho: luôn sẵn sàng chiến đấu
Chị Thao: cương quyết, táo bạo, chỉ huy cả đội trinh sát
– Trên người ai cũng có vô số vết thương to nhỏ: chị Thao có 9 vết thương, Nho 5 vết, Phương Định 4 vết, dù vết thương chưa khép miệng, dù chân tay đau nhức nhưng quyết không nằm trong quân y, vẫn chạy trên cao điểm phá bom.
⇒ Coi cái chết rất nhẹ, dù bị thương, bị vùi trong đất, mệt lả nhưng vẫn đùa vui trong gian khổ, coi việc bị thương là “xúi quẩy tí”, coi công việc của mình cũng có cái thú vị riêng.
d. Nghệ thuật
Ngôi kể thứ nhất, nhân vật xưng tôi: câu chuyện chân thực giàu cảm xúc, các nhân vật, sự kiện được tái hiện qua con mắt nhân vật Phương Định.
Xây dựng nhân vật hay hồi tưởng, cho thấy nỗi nhớ quê hương, nhớ những ngày mới ra chiến trường của nhân vật
Ngôn ngữ đối thoại ngắn gọn, mang tính mệnh lệnh, giúp bộc lộ sự quyết đoán, nhanh nhẹn, mạnh mẽ trong công việc của các nữ thanh niên xung phong. Nghệ thuật chọn lọc hình ảnh miêu tả đắt giá: lột tả được vẻ đẹp con người trước chiến tranh khốc liệt.
Miêu tả các nhân vật chỉ bằng một vài nét chấm phá nhưng làm bật lên được tính cách, nội tâm nhân vật.
3. Kết bài
Tác giả đã tái hiện lại một thời kì chiến tranh gian khó, khốc liệt, làm nổi bật lên hình ảnh những nữ thanh niên xung phong trẻ trung, nhiệt huyết, gan dạ, kiên cường.
Nghệ thuật truyện ngắn đặc sắc: sử dụng dòng thời gian hồi tưởng xen lẫn thực tại, giọng kể bình thản càng tôn lên phẩm chất anh hùng của các nhân vật, sử dụng hình ảnh miêu tả sự tàn khốc của chiến tranh.
…
Phân tích truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi ngắn gọnNếu nhà thơ Phạm Tiến Duật xây dựng thành công hình ảnh những người con trai lái xe trong kháng chiến chống Mỹ thì Lê Minh Khuê cũng xây dựng thành công hình ảnh những người con gái Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ trong Những ngôi sao xa xôi. Truyện ngắn giống như một bài ca trữ tình đẹp trong những bài ca về con người kháng chiến.
Truyện là câu chuyện của ba người con gái tên Phương Định, Nho và chị Thao. Ba người con gái ấy không chỉ đẹp trên chiến trận mà còn đẹp trong đời sống hàng ngày. Họ không những đẹp về ý chí kiên cường mà còn đẹp trong đời sống tâm hồn. Phương Định thích hát, hay hát, thích bịa bài hát và thích đi mơ mộng về những chuyện xa cũ. Cô có ước mơ trở thành một cô kiến trúc sư hay đi hát cho một đồng đội đồng ca nào đó. Nho có một cá tính rất đặc biệt, rất thuần hậu vui vẻ nhưng cũng rất bướng lì. Không những thế, cô thích thêu những bông hoa lòe loẹt. Cô được người thương gửi thư, những bức thư rất dài. Nho ước mơ mai này trở thành một tay bóng chuyền giỏi. Chị Thao là một người con gái đã có chồng chị ước mai này chị là y sĩ còn chồng chị là đại úy, chị hát không hay nhưng lại thích chép bài hát, chị có ba cuốn sổ chép đầy bài hát. Trong chiến đấu, họ rất dũng cảm, họ thường xuyên phải đếm bom chưa nổ và đo khối đất đá bị sạt lở.
Về mặt nghệ thuật, truyện là những suy nghĩ cảm xúc của nhân vật Phương Định, người đọc như được sống trong những mộng mơ, những suy nghĩ của nhân vật. Những câu chuyện được kết nối liên tục từ những câu chuyện này tới những câu chuyện khác, từ chuyện đời thường đến chuyện chiến đấu đều được thể hiện rất sinh động.
Có thể nói nhà văn Lê Minh Khuê đã làm nên một tác phẩm khiến cho bao độc giả yêu mến. Những cô gái ấy, những người trong tổ trinh sát mặt đường quả là gan góc, dũng cảm. Họ không những dũng cảm mà còn rất xinh đẹp và mang những nét tâm hồn đáng quý.
Phân tích truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi Phân tích Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 1Lê Minh Khuê là một trong những cây bút nữ tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Bà chuyên viết truyện ngắn với ngòi bút miêu tả tâm lý tinh tế, sắc sảo, đặc biệt là tâm lý nhân vật người phụ nữ. Những ngôi sao xa xôi được sáng tác năm 1971, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước đang diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Qua hình ảnh cuộc sống và chiến đấu kiên cường của ba nữ thanh niên xung phong làm nhiệm vụ phá bom trên tuyến đường Trường Sơn, tác giả ca ngợi phẩm chất anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Hoàn cảnh sống và chiến đấu của ba cô gái thanh niên xung phong vô cùng khó khăn. Họ sống dưới chân một cao điểm giữa vùng trọng điểm của tuyến đường Trường Sơn, nơi tập trung bom đạn ác liệt. Nơi đồn trú là một cái hang, dưới chân cao điểm, cách xa đơn vị. Nhiệm vụ của họ là quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá phải san lấp do bom địch gây ra, đánh dấu các trái bom đang nổ và phá bom.
Công việc của họ hết sức nguy hiểm vì thường xuyên phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày và máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Đó là một công việc mạo hiểm, thần kinh luôn căng thẳng đòi hỏi sự bình tĩnh tập trung cao độ.
Ba cô gái trẻ mang những phẩm chất vô cùng cao đẹp. Họ có tinh thần trách nhiệm cao; dũng cảm, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tình đồng đội gắn bó sâu sắc, hiểu được tính tình của nhau, quan tâm chăm sóc nhau chu đáo, cùng vào sinh ra tử, chẳng chút sợ hãi trước bom đạn của kẻ thù. Họ trẻ trung, giàu cảm xúc, hay mơ mộng, dễ vui nhưng cũng dễ trầm tư; rất nữ tính, thích làm đẹp.
Ở họ còn có những nét riêng thật đáng trân trọng. Nho được coi như em út, thích ăn kẹo, tính nết như trẻ con, thích thêu thùa, khi bị thương lại rất cứng rắn. Chị Thao là chị cả, hay làm dáng, lông mày tỉa nhỏ như que tăm, thích chép bài hát, trong công việc rất “cương quyết, táo bạo” nhưng lại sợ máu, sợ vắt. Phương Định là cô gái hồn nhiên, hay mơ mộng, hay nhớ lại kỷ niệm những ngày ở thành phố. Người chiến sĩ thanh niên xung phong kiên cường, quả cảm. Là một cô gái Hà Nội duyên dáng, trẻ trung, lãng mạn, dũng cảm, gắn bó với đồng đội qua hành động, lời nói, suy nghĩ và đặc biệt qua diễn biến tâm trạng ở các sự việc: khi ở trong hang chờ Nho, khi Thao đi phá bom trở về, khi trực tiếp tham gia phá bom nổ chậm và khi cơn mưa đá bất ngờ ào đến.
Ngôn ngữ tự nhiên, trẻ trung, nữ tính; đặc biệt với nhiều câu ngắn phù hợp với không khí căng thẳng, khẩn trương nơi chiến trường. Truyện sử dụng vai kể là nhân vật chính, có cách kể chuyện tự nhiên, ngôn ngữ sinh động, trẻ trung và đặc biệt thành công về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
Truyện ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của ba cô gái thanh niên xung phong – vẻ đẹp của các nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ.
Phân tích Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 2Đó chính là tâm thế hào hùng, hiên ngang của tuổi trẻ thời kháng chiến chống Mỹ trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Đã có bao tác phẩm ra đời viết về tuổi trẻ thời chống Mỹ, Lê Minh Khuê cũng góp nhặt vào vườn hoa đó một bông hoa ngát hương, mà chỉ vừa nghe cái tên ta đã thấy rực sáng một bầu trời: “Những ngôi sao xa xôi”.
Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Những tác phẩm đầu tay của chị ra mắt vào những năm 70, nội dung viết về cuộc sống chiến đấu sôi nổi, hào hùng của thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Một số truyện ngắn đã gây được sự chú ý và tình cảm yêu mến của bạn đọc.
Truyện Những ngôi sao xa xôi phản ánh chân thực tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong. Đó chính là những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa qua.
Cốt truyện đơn giản, mạch truyện phát triển theo diễn biến tâm trạng của người kể, kết hợp đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Có thể tóm tắt như sau:
Ba nữ thanh niên xung phong làm thành tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Tổ trưởng là chị Thao và tổ viên là hai cô gái trẻ tên Định và Nho. Nhiệm vụ của họ là quan sát máy bay địch ném bom, ước chừng khối lượng đất đá dùng để san lấp hố bom, đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và phá bom nổ chậm. Công việc hết sức nguy hiểm vì máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Họ phải đối mặt với thần chết trong mỗi lần phá bom, mà công việc này thì lại diễn ra thường xuyên. Các cô gái ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, cách xa đơn vị. Cuộc sống dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng họ vẫn có những niềm vui hồn nhiên, những giây phút thanh thản, mơ mộng. Đặc biệt là ba chị em rất gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng đội, dù mỗi người một cá tính. Ớ phần cuối, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của các nhân vật, chủ yếu là của Phương Định trong một lần phá bom. Nho bị thương đã được đồng đội lo lắng và săn sóc. Cơn mưa đá ở cao điểm khiến cho Phương Định hồi tưởng về tuổi học trò ở Hà Nội: Chao ôi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thật xa…
Để cho nhân vật chính là Phương Định đứng ra kể chuyện, điều đó phù hợp với nội dung truyện và tạo thuận lợi để tác giả vừa miêu tả, vừa thể hiện đời sống tâm hồn của nhân vật. Truyện viết về chiến tranh nên có những chi tiết, hình ảnh về bom đạn, chiến đấu, hi sinh… nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người.
Ba cô gái sống và chiến đấu trên một cao điểm giữa một vùng trọng điểm bắn phá của máy bay Mỹ trên tuyến đường Trường Sơn. Công việc của họ rất nguy hiểm vì giữa ban ngày, họ phải phơi mình dưới tầm đánh phá của máy bay địch. Nguy hiểm khôn lường nhưng các cô tự hào về công việc của mình và cái tên gọi mà đơn vị đặt cho là: tổ trinh sát mặt đường. Gắn với cái tên gợi sự khát khao làm nên những sự tích anh hùng ấy là công việc chẳng nhẹ nhàng, đơn giản chút nào.
Định hồn nhiên kể: Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng lóa lên trên khuôn mặt nhem nhuốc. Những lúc đấy chúng tôi gọi nhau là “những con quỷ mắt đen”.
Sau mỗi trận bom, các cô phải lao ngay ra trọng điểm, đo đạc và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh từng trái bom để phá. Đó là một công việc mạo hiểm với cái chết, thần kinh luôn căng thẳng, đòi hỏi sự dũng cảm và hết sức bình tĩnh. Nhưng với ba cô gái thì những công việc khủng khiếp ấy đã trở thành bình thường:
Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ… Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang.
Đối lập với cảnh tàn khốc do bom đạn giặc gây ra là sự bình tĩnh đến lạ lùng của các cô gái. Cảnh các cô sống trong hang sao mà lạc quan, thơ mộng đến thế: Bên ngoài nóng trên 30 độ, chui vào hang là sà ngay đến một thế giới khác. Cái mát lạnh làm toàn thân run lên đột ngột- Rồi ngửa cổ uống nước trong ca hay trong bi đông. Nước suối pha đường. Xong thì nằm dài trên nền ẩm lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc tử cái đài bán dẫn nhỏ mà lúc nào cũng có pin đầy đủ. Có thể nghe, có thể nghĩ lung tung… hình như ta sắp mở chiến dịch lớn.
Phân tích Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 3Lê Minh Khuê thuộc, thế hệ nhà văn trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Những tác phẩm đầu tay của chị ra mắt vào những năm 70, nội dung viết về cuộc sống chiến đấu sôi nổi, hào hùng của thanh niên xung phong và bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Một số truyện ngắn đã gây được sự chú ý và tình cảm yêu mến của bạn đọc.
Truyện Những ngôi sao xa xôi phản ánh chân thực tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong. Đó chính là những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa qua. Cốt truyện đơn giản, mạch truyện phát triển theo diễn biến tâm trạng của người kể, kết hợp đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Có thể tóm tắt như sau:
Ba nữ thanh niên xung phong làm thành tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Tổ trưởng là chị Thao và tổ viên là hai cô gái trẻ tên Định và Nho. Nhiệm vụ của họ là quan sát máy bay địch ném bom, ước chừng khối lượng đất đá dùng để san lấp hố bom, đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và phá bom nổ chậm. Công việc hết sức nguy hiểm vì máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào. Họ phải đối mặt với thần chết trong mỗi lần phá bom, mà công việc này thì lại diễn ra thường xuyên.
Các cô gái ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, cách xa đơn vị. Cuộc sống dù khắc nghiệt và nguy hiểm nhưng họ vẫn có những niềm vui hồn nhiên, những giây phút thanh thản, mơ mộng. Đặc biệt là ba chị em rất gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng đội, dù mỗi người một cá tính.
Ở phần cuối, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của các nhân vật, chủ yếu là của Phương Định trong một lần phá bom. Nho bị thương đã được đồng đội lo lắng và săn sóc. Cơn mưa đá ở cao điểm khiến cho Phương Định hồi tưởng về tuổi học trò ở Hà Nội: Chao ôi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thật xa…
Để cho nhân vật chính là Phương Định đứng ra kể chuyện, điều đó phù hợp với nội dung truyện và tạo thuận lợi để tác giả vừa miêu tả, vừa thể hiện đời sống tâm hồn của nhân vật. Truyện viết về chiến tranh nên có những chi tiết, hình ảnh về bom đạn, chiến đấu, hi sinh… nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người. Ba cô gái sống và chiến đấu trên một cao điểm giữa một vùng trọng điểm bắn phá của máy bay Mỹ trên tuyến đường Trường Sơn.
Công việc của họ rất nguy hiểm vì giữa ban ngày, họ phải phơi mình dưới tầm đánh phá của máy bay địch. Nguy hiểm khôn lường nhưng các cô tự hào về công việc của mình và cái tên gọi mà đơn vị đặt cho là: tổ trinh sát mặt đường. Gắn với cái tên gợi sự khát khao làm nên những sự tích anh hùng ấy là công việc chẳng nhẹ nhàng, đơn giản chút nào.
Định hồn nhiên kể: Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng lóa lên trên khuôn mặt nhem nhuốc. Những lúc đấy chúng tôi gọi nhau là “những con quỷ mắt đen”.
Sau mỗi trận bom, các cô phải lao ngay ra trọng điểm, đo đạc và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng những khối thuốc nổ đặt vào cạnh từng trái bom để phá. Đó là một công việc mạo hiểm với cái chết, thần kinh luôn căng thẳng, đòi hỏi sự dũng cảm và hết sức bình tĩnh. Nhưng với ba cô gái thì những công việc khủng khiếp ấy đã trở thành bình thường:
Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ… Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào, chạy về hang.
Đối lập với cảnh tàn khốc do bom đạn giặc gây ra là sự bình tĩnh đến lạ lùng của các cô gái. Cảnh các cô sống trong hang sao mà lạc quan, thơ mộng đến thế: Bên ngoài nóng trên 30 độ, chui vào hang là sà ngay đến một thế giới khác. Cái mát lạnh làm toàn thân run lên đột ngột – Rồi ngửa cổ uống nước trong ca hay trong bi đông. Nước suối pha đường. Xong thì nằm dài trên nền ẩm lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc từ cái đài bán dẫn nhỏ mà lúc nào cũng có pin đầy đủ. Có thể nghe, có thể nghĩ lung tung… hình như ta sắp mở chiến dịch lớn.
Phân tích Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 4Phạm Tiến Duật
Đâu chỉ có thế, trên nẻo đường Trường Sơn ta còn gặp những gì? Những chàng trai lái xe không kính hay còn kính và những chàng ngự lâm pháo thủ trò chuyện chớp nhoáng với các cô gái thanh niên xung phong, những cô trinh sát mặt đường, chuyên phá bom nổ chậm, mở đường cho xe qua thật thú vị và cảm động. Truyện ngắn những ngôi sao xa xôi kể lại cuộc sống và khắc họa chân dung tâm hồn tính cách của ba cô gái trẻ, ba vì sao xa xôi trên cao điểm Trường Sơn.
Ba cô gái thanh niên xung phong Thao, Định, Nho biên chế thành một tổ trinh sát mặt đường tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kỳ chống Mỹ. Nhiệm vụ của họ là quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá phải san lấp đánh dấu các vị trí các quả bom chưa nổ và phá chúng. Công việc của họ hết sức nguy hiểm vì phải thường xuyên chạy trên cao điểm giữa ban ngày và máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Cuộc sống và chiến đấu của họ nơi trọng điểm giữa chiến trường dù khắc nghiệt và muôn vàn nguy hiểm nhưng ba cô gái vẫn bình thản tươi vui hồn nhiên và không kém phần lãng mạn, đặc biệt là rất gắn bó yêu thương nhau trong tình đồng chí, đồng đội dù mỗi người một cá tính.
Tuyến đường Trường Sơn vào những năm 1969, 1970 vô cùng khắc nghiệt. Mỹ dội những trận mưa bom bão đạn trên con đường huyết mạch này, con người tiếp viện cho chiến trường miền Nam. Lực lượng thanh niên xung phong có nhiệm vụ gỡ bom lấp hố bom, mở đường cho bộ đội ta tiến quân. Ba cô gái trong truyện sống và chiến đấu trên một cao điểm giữa vùng trọng điểm tập trung bom đạn của giặc Mỹ. Nơi họ ở là một cái hang đá mát lạnh ngay dưới chân cao điểm tách xa đơn vị. Ban ngày, họ phải phơi mình dưới tầm bắn phá của máy bay. Sau mỗi trận dội bom họ phải lao ngay ra trọng điểm để làm nhiệm vụ.
Trước cái chết ai cũng run sợ và né tránh. Thế mà họ phải mạo hiểm với cái chết, thần kinh luôn căng thẳng, đòi hỏi sự bình tĩnh và sáng suốt dũng cảm. Đây là công việc hàng ngày, có khi một ngày hai ba lần phá bom như thế thật nguy hiểm. Nguy hiểm không lường nhưng các cô tự hào với cái tên mà đơn vị đặt cho là tổ trinh sát mặt đường.
Gắn với cái tên gợi sự khao khát làm nên sự tích anh hùng ấy là công việc chẳng nhẹ nhàng đơn giản nào: Chúng tôi bị bom vùi luôn. Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng lóa lên trên khuôn mặt nhem nhuốc. Những lúc đó chúng tôi gọi nhau là những con quỷ mắt đen.
Cả cô đều là con gái Hà Nội. Tuy cá tinh và hoàn cảnh riêng của mỗi người khác nhau nhưng họ đều có phẩm chất vô cùng tốt đẹp của thanh niên xung phong tiền tuyến. Đó là tinh thần dũng cảm tuyệt vời, không sợ gian khổ hy sinh quyết tâm khắc phục tốt khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ và tình cảm đồng đội gắn bó, yêu thương.
Ở họ còn có những nét chung của các cô gái trẻ là dễ xúc động, nhiều khát vọng hay mơ mộng dễ vui và dễ buồn. Trong bom đạn cận kề cái chết mà họ vẫn thích làm đẹp cho cuộc sống mình. Nho thích thuê thùa chị Thao chăm chép bài thơ, Định thích ngắm mình trong gương, thích ngồi bó gối thả mình theo dòng hồi tưởng và cất tiếng hát.
Riêng Phương Định, Lê Minh Khuê dành nhiều lời viết về cô, một cô gái xuất thân từ Hà Nội xinh đẹp, hồn nhiên, vô tư, tinh nghịch vừa dịu dàng lãng mạn. Kỷ niệm gia đình luôn trở về với cô trong những lúc chiến trường khốc liệt làm dịu mát tâm hồn cô. Cô còn rất nhạy cảm quan tâm đến bản thân và muốn được người khác để ý. Cũng như bao cô gái khác thì cô rất vui và tự hào về điều này.
Là một nữ sĩ từng trưởng thành từ lực lượng thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê am hiểu khá tinh tế tâm lý của những cô gái trong nhóm trinh sát mặt đường mà tiêu biểu là nhân vật Phương Định. Tâm trạng của Định lúc phá bom được đặc tả rất chân thực “Tôi dùng xẻng… một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình”. Mặc dù thành thạo trong công việc, có ngày phá đến 5 quả bom nhưng mỗi lần phá bom nổ chậm là một thử thách, căng thẳng nhất là lúc chờ đợi tiếng nổ chậm của quả bom đồng nghĩa với việc đã hoàn thành.
Công việc nguy hiểm là thế nhưng riêng lúc nào rảnh rỗi các cô vẫn hồn nhiên cất cao tiếng hát. Hát chưa hay bài chưa thuộc lời nhưng vẫn hát. Thậm chí Thao còn không bao giờ hát đến một bài, giọng chua chát nhưng vẫn mê say chép lời. Nhân vật Nho có vẻ lặng lẽ nhất trong 3 người nhưng thực ra cô là người rất can đảm kiên cường.
Trông xinh đẹp “như một que kem trắng” mà lại không ủy mị ướt át chút nào. Hằng ngày cô cùng đồng đội phá bom nổ chậm, có lần bị bom lùi và mảnh bom găm vào cánh tay, máu túa ra rất nhiều, da xanh xao quần áo đầy bụi, được đồng đội cứu kịp thời, Nho cắn răng chịu đau nhưng không khóc và cả ba người đều không ai khóc bởi họ cho rằng “Nước mắt đứa nào chảy trong khi cần cái cứng cỏi của nhau là bị xem như bằng chứng của một sự tự nhục mạ”.
Lê Minh Khuê thành công khi xây dựng truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi. Động viên tiếp sức cho tuổi trẻ Việt Nam luôn ý thức vươn lên trong cuộc sống.
Phân tích Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 5Nhắc đến khoảng trời Trường Sơn là nhắc đến biết bao sự hy sinh mất mát, nơi mà lính Mỹ đã thả bom dồn dập nhằm ngăn cản bước tiến dũng mãnh của các đoàn quân tiến về Sài Gòn giải phóng miền Nam. Nhưng Trường Sơn đâu chỉ mang trong mình bao sự thương đau, Trường Sơn con là nơi ghi dấu của những tâm hồn tự nhiên, lạc quan của những người chiến sĩ lái xe không kính, những chàng trai cô gái thanh niên xung phong đã hy sinh tuổi trẻ để cống hiến cho đất nước.
Là một người đã từng gắn bó với khoảng trời bom đạn ấy, nhà văn Lê Minh Khuê đã khai thác đề tài quen thuộc đã làm nên nhiều tên tuổi lớn trần văn đàn chống Mỹ nhưng cùng với sự sáng tạo và một chút lãng mạn của mình, “Những ngôi sao xa xôi” của bà, đã khắc họa hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong, mà tiêu biểu là nhân vật Phương Định với những vẻ đẹp hồn nhiên vốn có của tuổi trẻ Việt Nam trong thời chống Mỹ.
Câu chuyện kể về ba cô gái, ba cô gái thanh niên xung phong Nho, Thao và Phương Định, sống trên một cao điểm giữa mênh mông khói bụi Trường Sơn, nơi mà “màu đất đỏ, trắng lẫn lộn”. Công việc của họ là “ngôi đây”, ”khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hồ bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”.
Trong lúc đơn vị thường làm việc khi mặt trời lặn, thì tổ trinh sát lại làm việc ban ngày, khi thần chết luôn “lẩn trong ruột những quả bom”, khi mà lính Mỹ thả bom nhiều nhất và cái chết luôn theo sát ba cô gái ấy. Công việc của họ là công việc quan trọng và cũng đầy gian khổ hy sinh, đòi hỏi tinh thần dũng cảm, sự nhạy bén quyết đoán và sự nhanh nhẹn. Trong hoàn cảnh ấy, ta mới thấy sáng ngời lên là những phẩm chất cao đẹp của ba nhân vật, và đặc biệt là Phương Định, nhân vật chính của truyện.
Phương Định là một cô gái Hà Nội, “một cô gái khá”, chỉ vừa mới bước ra khỏi cuộc đời hồn nhiên vô tư lự của mình. Cô có vẻ bề ngoài đáng yêu trẻ trung và xinh xắn, “hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”, còn đôi mặt thì có “cái nhìn sao mà xa xăm”.
Những nét đẹp của cô đã được những anh lái xe để ý đến, bằng chứng là những bức thư dài gửi đường dây mặc dù có thể chào nhau hằng ngày, nhưng Phương Định cũng không săn sóc vồn vã, cô gái vẫn hay đứng ra xa, khoanh tay trước mặt và nhìn đi nơi khác mỗi khi một đám con gái xúm lại đối đáp với một anh bộ đội nói giỏi nào đấy. Một hành động đó thôi đã làm Phương Định trở nên thật kiêu kỳ, cái điệu của cô thật đáng yêu và cũng thật phù hợp với một người con gái như vậy.
Tâm hồn cô giữa khoảng trời Trường Sơn thật làm cho người ta thật ngạc nhiên. Cô mê hát, “thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát”, lời cô bịa lộn xộn ngớ, ngẩn ngẩn đến không ngờ, đôi lúc nó cũng làm cho cô bò ra mà cười một mình, cô thích “những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận”, cô thích “dân ca quan họ mềm mại dịu dàng” và kể cả “Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên Xô”, “ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh””.
Và Phương Định hát khi có sự im lặng không bình thường, “tiếng máy bay trinh sát rè rè”, cô hát để cổ động viên hai người đồng đội Nho, Thao và cũng là hát để động viên chính bản thân mình. Chính những lúc mê hát ấy đã làm cô quên đi cái sự buồn chán của cuộc sống Trường Sơn, quên đi mùi khói bom đạn mà cô vẫn tiếp xúc hằng ngày, và đó cũng là bước đà để cô có được một tâm hồn mơ mộng khi cơn mưa đá vừa ập đến.
Phân tích Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 6Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, bà từng là thanh niên xung phong và bắt đầu sáng tác vào đầu những năm 70. Trước chiến tranh các tác phẩm của bà tập trung phản ánh đời sống, cuộc chiến đấu của những con người trẻ tuổi trên tuyến đường Trường Sơn, ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất và tinh thần của họ. Những ngôi sao xa xôi là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của bà thời kì kháng chiến chống Mỹ.
Những ngôi sao xa xôi được sáng tác năm 1971 trong giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt. Tác phẩm không chỉ làm nổi bật cuộc sống chiến đấu gian khổ của những người chiến sĩ, của những thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn, mà còn làm nổi bật tinh thần anh dũng của họ. Tác phẩm xoay quanh ba nhân vật: Nho, Thao, Phương Định mỗi người một cá tính, một tâm hồn nhưng tựu chung đều có lòng yêu nước nồng nàn.
Nhân vật chính trong tác phẩm là Phương Định, một cô gái người Hà Nội, trẻ trung và hội tụ trong mình biết bao phẩm chất tốt đẹp, đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời kỳ đó. Trước hết cô là một người kiên cường, dũng cảm. Cô cùng đồng đội đảm đương công việc hết sức nguy hiểm, gian khổ trên cung đường Trường Sơn, giữa những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác liệt nhất: cô thuộc tổ trinh sát mặt đường, hàng ngày phải đo khối lượng đất đá lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần cô sẽ phá những trái bom đó để đảm bảo an toàn cho những chiếc xe tiến vào miền Nam.
Nhiệm vụ chứa đầy sự nguy hiểm, ngay khi máy bay địch vừa đi qua cô cùng đồng đội phải lập tức lên cao điểm: “đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh đó nhiều quả bom chưa nổ”. Tình thế nguy hiểm là vậy, nhưng cô vẫn dũng cảm tiến đến hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Cô đi thẳng đến chỗ những quả bom, cô chiến thắng nỗi sợ hãi của chính mình, tất cả các giác quan trở nên tinh nhạy hơn bao giờ hết. Tinh thần trách nhiệm cùng với sự kiên cường dũng cảm khiến cái chết trở nên mờ nhạt, cũng có đôi lúc cô nghĩ đến cái chết “nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể”, điều Phương Định quan tâm nhất là: “liệu mìn có nổ? bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai”, tuyệt nhiên cái chết không phải mối bận tâm hàng đầu của cô. Tinh thần ấy, vẻ đẹp ấy tiêu biểu cho sự quả cảm, gan dạ của nữ chiến sĩ thanh niên xung phong.
Đằng sau sự dũng cảm, kiên cường lại là một tâm hồn nhạy cảm, mơ mộng và giàu tình yêu thương. Dù đã vào chiến trường ba năm, trải qua nhiều thử thách, khó khăn, gian khổ nhưng Phương Định vẫn giữ vẹn nguyên thế giới tâm hồn mình, cô mang trong mình nét hồn nhiên, mơ mộng, trẻ trung. Cô tự nhận mình “là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm và một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn.
Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “cô có cái nhìn sao mà xa xăm”, qua những lời tự nhận xét ấy, cho thấy Phương Định là một cô gái xinh đẹp và rất tự tin về bản thân. Đặc biệt cô rất thích hát ở nhiều thể loại khác nhau, thậm chí cô còn tự bịa ra để hát. Tâm hồn cô luôn trẻ trung, tươi vui dù trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.
Cô còn là một cô gái tinh tế, nhạy cảm, trước một cơn mưa đá bất chợt cô vui sướng như con trẻ, hồi tưởng về quá khứ, về tuổi thơ, về căn nhà nhỏ của mình ở Hà Nội. Không chỉ vậy, Phương Định còn là tình cảm gắn bó sâu nặng và tình yêu thương, sự quan tâm với những đồng đội của mình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong lần Nho bị thương, cô cẩn thận, kỹ lưỡng chăm sóc cho cô em gái nhỏ. Tất cả những yếu tố trên đã cho thấy một Phương Định nhạy cảm, tinh tế, hồn nhiên nhưng cũng không kém phần dũng cảm, gan dạ.
Phân tích Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 7Có lẽ không nơi đâu như mảnh đất Việt Nam này, mỗi con đường, góc phố, cánh rừng đều in đậm vẻ đẹp của những con người hiền hòa mà anh dũng. Nhất là trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có biết bao con người trẻ tuổi khoác ba lô ra chiến trường để chiến đấu và làm việc, vì một lý tưởng cao cả là giành lại độc lập tự do cho quê hương mình.
Rất nhiều tác phẩm văn học đã sinh ra từ không khí hào hùng của thời đại đó. Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi được Lê Minh Khuê viết vào năm 1971, khi cuộc chiến đấu của quân dân ta đang ở giai đoạn cam go, ác liệt nhất. Tác phẩm ra đời từ một ngòi bút trực tiếp tham gia công tác và chiến đấu tại tuyến đường Trường Sơn, nên đã chuyển tải được sự ác liệt của bom đạn và làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của những con người Việt Nam trẻ tuổi, mà đại diện tiêu biểu chính là Nho, Thao và Phương Định.
Hãy xem hoàn cảnh sống và chiến đấu của các nhân vật chính trong tác phẩm. Họ là ba cô gái sống trong một cái hang dưới chân cao điểm. Nơi này đạn bom luôn làm rung chuyển mặt đất. Công việc của họ là trinh sát mặt đường, đo khối lượng đất đá cần để lấp hố bom, phát hiện, đếm những quả bom nổ chậm, và tìm cách phá bom để bảo vệ con đường.
Nơi ở là nơi nguy hiểm, công việc thì luôn phải đối đầu với cái chết. Bên cạnh đó, họ phải chịu đựng nhiều khó khăn, thiếu thốn. Nhưng ở họ, ta lại cảm nhận được một tinh thần đoàn kết sâu sắc. Họ như kết thành một khối, có sức mạnh để vượt qua tất cả.
Lê Minh Khuê miêu tả từng nhân vật với những nét tính cách khác nhau. Đầu tiên là chị Thao, tiểu đội trưởng. Thao xứng đáng là người chỉ huy của cả đội, bởi chị lúc nào cũng rất bình tĩnh. Tình thế càng nguy hiểm thì sự bình tĩnh đó càng lộ ra rõ rệt, “những khi biết rằng cái sắp tới sẽ không êm ả thì chị tỏ ra bình tĩnh đến phát bực”. Sự bình tĩnh đó giúp cho việc thực hiện nhiệm vụ lúc nào cũng chính xác và hiệu quả.
Ấy vậy mà cô gái này lại “thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét, áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu. Chị lại hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm.”, đó là vẻ đẹp mang màu sắc nữ tính của chị Thao. Thao điệu đà, thích chép những bài hát vào một cuốn sổ, nhưng trong công tác thì vô cùng táo bạo và cương quyết. Mệnh lệnh của chị Thao luôn được Nho và Phương Đinh tuân thủ chặt chẽ. Tính kỷ luật của tiểu đội được đặt lên hàng đầu.
Còn khi miêu tả Nho, nhà văn để cho nhân vật xuất hiện trong cái nhìn rất thương mến của Phương Định. Đó là lúc Nho đi từ dưới suối lên, cái cổ tròn, trông nhẹ “mát mẻ như một que kem”. Nho có những mơ ước bình dị “Xong chiến tranh, sẽ xin vào một nhà máy thuỷ điện lớn. Nó làm thợ hàn, sẽ trở thành cầu thủ bóng chuyền của nhà máy. Nó sẽ đập thật giỏi. Và biết đâu lại sẽ được người ta tuyển vào đội bóng chuyền miền bắc”.
Vẻ đẹp của Nho giản dị như thế đấy, nhưng cô gái thanh niên xung phong này có thể đảm đương những nhiệm vụ khó khăn nhất. Khi phá bom: “Nho hai quả dưới lòng đường”. Khi bị thương, Nho vẫn điềm tĩnh, đòi uống nước, và tinh nghịch trước cơn mưa đá bất chợt ào đến. Nho thật đáng yêu và đáng khâm phục.
Nhưng có thể nói nhân vật trung tâm mà Lê Minh Khuê miêu tả thật sâu sắc phải kế đến Phương Định, người ở ngôi thứ nhất kể lại câu chuyện này. Về nguồn gốc xuất thân, Phương Định vốn là một cô gái Hà Nội vừa rời ghế nhà trường đã xung phong ra trận, đó là vẻ đẹp lý tưởng ở những con người trẻ tuổi thuộc thế hệ đánh Mỹ. Ngoại hình của Phương Định khá xinh đẹp, “nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá.
Phân tích Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 8Trong nền văn học cách mạng thời kì chống Mỹ, những cái tên nổi tiếng như Nguyên Ngọc, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu… đã sáng tác ra những tác phẩm vô cùng ý nghĩa. Đi theo quy luật chung của nền văn học Lê Minh Khuê cũng góp cho nền văn học cách mạng tác phẩm đậm tính hiện thực và tính lãng mạn Những ngôi sao xa xôi.
Tác phẩm là câu chuyện về ba người con gái sống dưới hang đá ngày đêm làm những công việc vô cùng nặng nhọc và nguy hiểm. Những tưởng công việc phá bom, đo lượng đất đá là để dành cho những đấng mày râu sức dài vai rộng vậy mà ở đây những cô gái lại có thể làm tốt công việc này. Đó là ba cô gái Phương Định, chị Nho và Thao.
Họ đều có chung một vẻ đẹp là gan dạ và dũng cảm trên chiến trường. Họ được gọi là tổ trinh sát mặt đường. Họ gỡ mìn dứt khoát, luôn lo lắng cho nhau và nhận trách nhiệm về mình. Sau những giờ căng thẳng trên cao xạ, họ trở về hang giống như một con người khác. Họ chơi đùa với nhau, họ đều có mơ ước, đều mơ mộng và vui vẻ.
Advertisement
Phương Định là cô gái khá xinh, đôi mắt giống như những ngôi sao trên bầu trời vậy. Cô thường nhớ về quá khứ của mình, nơi Hà Nội cổ kính, cô thường hát nghêu ngao khiến cho bác sĩ già bên cạnh không thể nào ngủ nổi. Cô vui khi có cơn mưa đá ở Hà Nội. Cô nhớ về mẹ, nhớ những nếp nhà mái đỏ. Cô thích hát nhưng chẳng thuộc bài nào ra hồn, có lúc cô chế cả lời bài hát. Cô ước mơ mai nay trở thành một người hát trong đội đồng ca hoặc một kiến trúc sư.
Chị Thao đã có chồng, chị mong muốn mai này chồng của mình sẽ làm đại úy còn mình thì làm y sĩ. Chị không biết hát nhưng thích chép lời bài hát, thậm chí còn chép cả lời bịa của Phương Định. Chị gan dạ trên chiến trường nhưng lại sợ con vắt. Chị thích tỉa tót đôi lông mày của mình nhỏ như tăm.
Nhân vật thứ ba là Nho. Cô nàng này rất cá tính và đôi chút bướng bỉnh. Nho thích thêu thùa nhưng toàn thêu những thứ hoa lòe loẹt, mỗi khi người khác chê Nho mặc kệ cùng lắm Nho chỉ nói để cho nó nổi. Nho không thích lấy chồng, hàng ngày vẫn có anh chàng nọ viết thư cho cô. Cô ước mơ mai này trở thành một tay bóng chuyền trong đội tuyển quốc gia.
Ba nhân vật, ba tính cách khác nhau thế nhưng họ đều đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ, gan dạ kiên cường trên chiến trường nhưng cũng lạc quan, yêu đời và mơ mộng những lúc không có bom đạn. Họ như những ngôi sao sáng của bầu trời cách mạng Việt Nam.
Phân tích Những ngôi sao xa xôi – Mẫu 9Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các tác phẩm của bà thường viết về những người thanh niên trên tuyến đường Trường Sơn, trong đó tiêu biểu là tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”. Đến với truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”, ta không chỉ được chứng kiến những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất mà còn thấy được tình cảnh đồng đội thắm thiết và cả những người nữ thanh niên xung phong với tính cách trong sáng, tràn đầy lạc quan.
“Những ngôi sao xa xôi” là tác phẩm viết về “tổ trinh sát mặt đường” gồm Nho, Thao và Phương Định, làm việc trên một trọng điểm của tuyến đường Trường Sơn máu lửa. Hoàn cảnh sống và chiến đấu của các cô chứa đựng đầy những gian khổ, vất vả và nguy hiểm. Bởi tuyến đường này là nơi quân Mỹ tập trung đánh phá ác liệt nhất mà nhiệm vụ của các cô gái ấy lại là san lấp những hố bom, đánh dấu những trái bom chưa nổ và khi cần thì phá bom. Công việc hết sức nguy hiểm, luôn phải đối mặt với “thần chết rình rập” khi họ phải “chạy trên cao điểm giữa ban ngày” và máy bay địch thì có thể ập tới bất cứ lúc nào. Người ta có thể thấy ngay được sự nguy hiểm của tuyến đường này khi nhìn vào mức độ mà giặc Mỹ đánh phá nó “Ðường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc”. Có thể thấy rằng công việc của những người trinh sát ấy không chỉ là sự hiểm nguy về thể xác khi có thể bị bom vùi bất cứ lúc nào mà còn đòi hỏi ở họ sự tập trung cao độ, sự bình tĩnh, gan dạ và chính xác hết mực.
Thế nhưng, ba cô gái ấy, Nho, Thao, Phương Định dù trong gian khổ, hiểm nguy vẫn luôn mang trong mình vẻ đẹp, sự trong sáng của những cô gái tuổi mười bảy. Họ có những điểm chung, những điểm riêng khác biệt làm nổi bật lên hình ảnh của những đoá hồng nơi chiến trường bom đạn mịt mù.
Ở Nho, Thao và cả Phương Định nữa, ta thấy được rằng họ có chung một lí tưởng sống cao đẹp. Lí tưởng ấy đã dẫn dắt họ, để họ trở thành những người đồng đội gắn bó thân thiết trên cao điểm này. Họ đại diện cho lớp thanh niên yêu nước vào những năm 70 của thế kỉ trước, sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân phơi phới của mình cho sự nghiệp cứu quốc hào hùng. Công việc của những cô gái ấy là “Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất phải lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom” – một công việc chứa đựng sự nguy hiểm vô cùng, vậy mà chỉ cần nghe tiếng máy bay địch và nghe tiếng bom nổ là họ sẵn sàng lao ngay ra cao điểm để thực hiện nhiệm vụ của mình. Điều đó cho ta thấy được sự can đảm, kiên cường, dũng cảm và gan dạ, không hề sợ hãi trước nguy hiểm của những cô gái thanh niên xung phong ấy. Họ có nghĩ đến cái chết nhưng chỉ là cái chết “mờ nhạt và không cụ thể”. Bởi trên tất cả điều họ mong muốn là bom nổ, thông đường và những chuyến xe của những người lính sẽ lăn bánh qua những con đường an toàn.
Ba cô gái trẻ ấy còn khiến chúng ta bất ngờ bởi tinh thần trách nhiệm rất cao trong công việc của mình. Hình ảnh của chị Thao và Nho quyết đoán chạy ngay ra ngoài để đo khối lượng bom vừa được thả xuống. Hay Phương Định khi cô phá quả bom nằm một mình trên đồi vắng. Họ đều thực hiện rất nghiêm túc công việc của mình mà không hề sợ hãi, hay có bất cứ băn khoăn nào. Bởi họ ý thức được công việc của mình quan trọng như thế nào đối với tiền tuyến, và tuyến đường này là tuyến đường xương máu, dù có hi sinh cũng phải giữ cho đường được an toàn. Ý chí, lòng yêu nước của những cô gái ấy khiến ta phải cúi đầu khâm phục.
Ở những cô gái kiên cường này còn toát lên tinh thần đồng đội sâu sắc. Sống chung với nhau lâu ngày, cùng nhau chiến đấu, Nho, Thao, Phương Định dường như đã coi nhau như chị em ruột thịt thân thiết. Họ hiểu nhau, biết nhau thích gì, sợ gì, quan tâm đến đồng đội của mình từng chút một. Khi đồng đội bị thương, họ cũng chăm sóc cho nhau, lo lắng cho nhau. Đó là tình đồng đội ấm áp, vững chắc mà chắc hẳn chỉ có cùng nhau chiến đấu mới có thể khăng khít đến nhường ấy.
Và cuối cùng, ở họ, những cô gái trinh sát, ta thấy được một tâm hồn lạc quan, phơi phới mộng mơ, dù đang ở trong chiến tranh ác liệt nhất. Họ giữ trong mình những sở thích như ăn kẹo ngọt, thêu thùa, hát,… và bộc lộ khát khao về hoà bình, nơi không còn thấy khói lửa chiến tranh và họ sẽ được làm những công việc mà họ mơ ước.
Đó là điểm chung của những cô gái trong “tổ trinh sát mặt đường” trên tuyến đường Trường Sơn. Vậy những điểm riêng của họ là gì? Điều gì khiến họ trở nên khác biệt so với những cô gái khác?
Ở Phương Định, ta thấy được cô là một người con gái hết sức đặc biệt và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Phương Định là con gái Hà Nội, vừa rời ghế nhà trường đã xung phong ngay vào nơi chiến trường trọng điểm đánh phá của giặc Mỹ. Phương Định mới chỉ mười bảy tuổi, tâm hồn cô vẫn còn những thơ ngây, những mộng mơ, những nét hồn nhiên, tinh nghịch của tuổi học trò. Có lẽ bởi vậy điều mà cô thích nhất là hát: “dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng”, “Ca-chiu-sa của Hồng quân Liên xô” hay “dân ca Ý trữ tình”, “thường cứ thuộc điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát”, dù rằng lời bịa ấy “lộn xộn mà ngớ ngẩn” đến mức chính cô còn “ngạc nhiên, đôi khi bò ra mà cười một mình”. Ở tuổi mười bảy, Phương Định tự ý thức được về bản thân mình, cô nhận định mình rằng: “Tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao kiêu hãnh như loài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm”. Chẳng vậy mà các anh lính lái xe, pháo thủ luôn “hỏi thăm cô”và “viết những thư dài gửi đường dây” dù rằng cô và họ gặp nhau mỗi ngày. Điều đó đã khiến cho Phương Định cảm thấy vui mừng và tự hào, nhưng cô luôn giữ điều đó vào trong lòng mình. Điều cô thích chỉ là ngắm mình trong gương, “mím môi thật chặt” làm điệu khi thấy các cô gái khác chuyện trò cùng anh bộ đội nào đó. Có thể nói, Phương Định là một người con gái Hà Nội hết sức duyên dáng, nhạy cảm, biết quan tâm tới hình thức của mình nhưng cũng rất khiêm tốn và kín đáo.
Và không chỉ có những điều đó, ta còn thấy ở cô là người trinh sát vô cùng gan dạ, và điều đó biểu hiện trong một lần cô phá bom. Quả bom mà cô cần phá “nằm trên đồi”, đây là một vị trí vô cùng nguy hiểm bởi nó có thể thu hút máy bay địch bất cứ lúc nào nên việc phá bom cần rất nhanh chóng và chính xác. Nhận nhiệm vụ từ tay chị Thao, Phương Định chạy ngay lên đồi nơi mà “vắng lặng đến phát sợ. Cây còn lại xơ xác. Đất nóng. Khói đen vật vờ tùng cụm trong không trung”. Quả bom mà cô cần phá “nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô”. Khi bước đến gần quả bom, cô đã tự nhủ với mình rằng “không đi khom” mà phải “đàng hoàng” bước tới. Khi thực hiện nhiệm vụ của mình, cô cũng cảm thấy hồi hộp và căng thẳng, bởi công việc của cô là đối mặt với tử thần khi bom có thể nổ bất cứ lúc nào. Nhưng khi tiến hành công việc, cô càng cho thấy bản lĩnh tự tin và dũng cảm của mình, cô không sợ chết bởi cái chết với cô “mờ nhạt và không cụ thể”. Và lần phá bom ấy đã chứng tỏ một bản lĩnh dũng cảm, kiên cường của một cô gái trẻ, tiêu biểu cho những tấm gương thanh niên lên đường cứu quốc.
Phương Định là một cô gái có tâm hồn đa cảm, dễ xúc động. Là người con gái của Hà thành vào nơi đây chiến đấu, vậy nên lúc nào Phương Định cũng mơ về Hà Nội của mình. Ở nơi Hà Nội xa xôi ấy có mẹ của cô, có căn gác nhỏ mà cô hay ngồi hát, có “những ngôi sao to trên bầu trời”, “vòm tròn của nhà hát”, bà bán kem”,… Những điều đó gợi cô nhớ về Hà Nội thân yêu, nơi có những phồn hoa mà cô đã phải rời xa để tiến bước vào nơi chiến trường này! Chỉ một cơn mưa đá chợt đến, chợt đi cũng đủ để gợi dậy trong lòng Phương Định bao nhiêu xúc cảm.
Còn ở Thao, người ta thấy chị là một người chị cả, người đội trưởng rất quyết đoán, mạnh mẽ trong công việc nhưng trong cuộc sống chị lại rất dịu dàng và hay làm dáng. Khi thấy tiếng “máy bay trinh sát rè rè”, “phản lực gầm gào” thì Thao đã biết chúng sắp thả xuống đây những đợt bom mới. Chị chỉ “móc bánh quy trong túi, thong thả nhai. Sự “bình tĩnh đến phát bực” của người đội trưởng Thao có lẽ là được tôi luyện trong những năm tháng sống trên cao điểm này. Cuộc sống nơi đây đã dạy cho chị bản lĩnh, sự điềm tĩnh, gan dạ của một người chị cả. Khi tiếng bom nổ, chị đã phân công công việc hết sức rõ ràng và quyết đoán, khiến cho Phương Định phải thốt lên mà công nhận rằng “ai cũng gờm chị: cương quyết, táo bạo”.
Vậy nhưng chị Thao ngoài công việc lại là một người chị cả rất dịu dàng. Chị hay làm điệu “Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu. Chị hay tỉa đôi lông mày của mình, tia nhỏ như cái tăm”. Và cũng như những người con gái trẻ khác, chị sợ máu và vắt, “thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét”.
Với Nho, người em út của cả nhóm thì còn rất ngây thơ, rất trẻ con. Là một người lính trên tuyến đường máu lửa, ác liệt nhất trong kháng chiến chống Mỹ thế nhưng Nho lại mang trong mình sự ngây thơ, đáng yêu đến nỗi Phương Định coi Nho như là em gái của mình, dù rằng cả hai cô gái đều đang ở độ tuổi mười bảy. Nho thích ăn kẹo nên lúc nào Phương Định cũng phần sẵn cho cô trong túi áo. Với Phương Định, Nho như một “cây kem” mát mẻ giữa cái nóng “bức người” nơi chiến trường này. Trẻ con là thế nhưng khi trúng bom bị thương, cô cũng thể hiện bản lĩnh của một chiến sĩ. Bị mất máu, bị đau thế nhưng Nho không hề kêu than một lời, cô chỉ im lặng để đồng đội băng bó vết thương cho mình.
Về nội dung, truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” đã cho chúng ta thấy được cuộc sống và chiến đấu đầy gian khổ và hiểm nguy của những cô gái thanh niên xung phong Nho, Thao, Phương Định trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Thế nhưng dù ở trong hoàn cảnh như thế, ta vẫn thấy được tinh thần lạc quan, dũng cảm, tâm hồn mơ mộng, hồn nhiên của các cô gái ấy. Đó là những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Về nghệ thuật, truyện được kể theo ngôi thứ nhất, thông qua con mắt nhìn của Phương Định, vậy nên khiến người đọc cảm thấy hết sức chân thực và sinh động. Ngôn ngữ đối thoại súc tích, ngắn gọn, bộc lộ sự quyết đoán, mạnh mẽ của các nhân vật trong công việc của mình. Việc lựa chọn miêu tả những hình ảnh tiêu biểu cũng đã giúp lột tả được vẻ đẹp cũng như bản lĩnh của những người con gái nơi đây. Hình tượng các nhân vật được xây dựng chỉ bằng vài nét chấm phá, thế nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được toàn bộ nội tâm cũng như tính cách của nhân vật. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng rất tinh tế, khéo léo.
Lê Minh Khuê đã xây dựng lên một câu chuyện về những người nữ thanh niên xung phong gan dạ trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ hết sức thành công. Họ là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng ấy và sẽ mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ sau noi theo.
Lung linh vẻ đẹp của Những ngôi sao xa xôiCó một thời để nhớ, có một thời đẹp hơn mọi lời ca, một thời mà cả nước lên đường phơi phới bước chân trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại. Trường Sơn ơi, rầm rập bước quân hành. Hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đầu lửa đạn đã trở thành đề tài văn học. Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu, Lá đỏ – Nguyễn Đình Thi, Khoảng trời hố bom – Lâm Thị Mỹ Dạ… đã khắc họa vẻ đẹp kiêu hùng của thời đại. Lê Minh Khuê, một nhà văn nữ trưởng thành trong chiến tranh đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi đã tạo nét duyên dáng của cây bút trẻ. Truyện đã phản ánh thành công khốc liệt của chiến tranh đồng thời ánh lên vẻ đẹp tâm hồn như những vì sao lung linh ngời sáng của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến lửa Trường Sơn.
Bước vào tác phẩm ta thấy Lê Minh Khuê đã phác họa khung cảnh và không khí trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn chỉ bằng một vài nét chấm phá miêu tả hiện thực cô đọng nhưng cũng đủ khái quát khốc liệt chiến tranh. Và có lẽ thành công của tác phẩm là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và ngôn ngữ trần thuật. Với sự lựa chọn cách trần thuật ở ngôi thứ nhất, Phương Định là người kể cũng là nhân vật chính của truyện. Nhà văn Lê Minh Khuê đã miêu tả rất cụ thể thế giới nội tâm, những cảm xúc và suy nghĩ của ba cô gái thanh niên xung phong. Truyện viết về đề tài chiến tranh nên có nhiều chi tiết về bom đạn, chiến đấu, hi sinh nhưng chủ yếu là hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người trong hoàn cảnh khốc liệt. Có được sự thành công đó phần lớn là nhờ vào cách lựa chọn ngôi kể phù hợp của tác giả.
Truyện ngắn Những ngôi xa xôi của Lê Minh Khuê có cốt truyện khá đơn giản. Truyện kể về ba cô thanh niên xung phong tên là Thao, Nho và Phương Định. Họ làm thành một tổ trinh sát mặt đường trên cao điểm tại một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Đây là nơi tập trung nhiều bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt. Hoàn cảnh sống và chiến đấu của ba cô gái đặc biệt gian khổ nguy hiểm và công việc của họ cũng đầy nguy hiểm hi sinh. Ngay giữa ban ngày, họ phải phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch. Sau mỗi trận bom họ phải lao ra trọng điểm, đo ước tính khối lượng đất đá lấp hố bom địch đào xới, đếm bom chưa nổ và phá bom. Đây là một công việc hết sức mạo hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi họ phải hết sức dũng cảm và bình tĩnh. Nhưng với họ công việc nguy hiểm ấy đã trở thành quen thuộc, bình thường: “Có nơi đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay ầm ì xa dần. Thần kinh căng như dây chão, tim đập bất kể nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ… Rồi khi xong việc, quay lại nhìn cảnh đoạn đường một lần nữa, thở phào chạy về hang.”
Những cô gái làm trinh sát mặt đường ấy, có cùng xuất thân là những cô gái Hà Nội, có cá tính và hoàn cảnh riêng khác nhau nhưng ba cô đều có phẩm chất chung của thanh niên xung phong ở chiến trường là có tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ, không sợ hy sinh, có tình đồng đội gắn bó. Đó là mẫu người sẵn sàng “Đi bất cứ nơi đâu khi Tổ quốc đang cần”. Ngoài ra, họ còn có những nét tính cách chung của các cô gái trẻ là dễ xúc cảm, nhiều ước mơ, hay mơ mộng, dễ vui mà cũng dễ trầm tư và thích làm đẹp cho cuộc sống của mình dù đang sống ở chiến trường. Cụ thể là chị Thao rất thích chép bài hát, chép cả lời hát bịa của Phương Định. Còn Nho thích thêu thùa và Phương Định, những lúc rảnh rỗi lại thích ngắm mình trong gương hay ngồi bó gối mơ màng. Đó là nét đẹp lãng mạn trong khói lửa chiến tranh, là sức sống dâng tràn mặc mưa bom bão đạn như Bùi Minh Quốc cũng từng viết:
Nho, Thao, Phương Định sống trong một tập thể, họ hết sức gắn bó yêu thương nhau nhưng ba cô gái vẫn có những nét tính cách riêng không ai giống ai. Chị Thao thì ít nhiều từng trải hơn, không dễ dàng hồn nhiên, mơ mộng và dự tính tương lai có vẻ thiết thực hơn nhưng cũng không thiếu những khát khao và rung động của tuổi trẻ. Chị chiến đấu rất dũng cảm, bình tĩnh nhưng lại rất sợ khi nhìn thấy máu chảy và sợ cả vắt nữa. Còn Nho là người nhỏ tuổi nhất, tính cô lại càng trẻ con. Nho thích mút kẹo. Hàng ngày cô được cưng chiều và luôn nhận phần việc nhẹ hơn. Nhưng không phải vì thế mà cô ỷ lại công việc cho Thao và Phương Định. Cô vẫn dũng cảm, cứng rắn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
Phương Định là nhân vật chính của truyện được Lê Minh Khuê tập trung ngòi bút để miêu tả. Cô vốn là con gái Hà Nội vào chiến trường. Cô có thời học sinh hồn nhiên vô tư bên người mẹ. Cô có một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh của thủ đô trong những ngày thanh bình trước chiến tranh. Những kỉ niệm ấy, luôn sống trong lòng cô ngay giữa chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khát khao, vừa là dòng suối làm dịu mát tâm hồn cô trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh.
Nói về ngoại hình, Lê Minh Khuê không hề miêu tả chi tiết mà tác giả rất tinh tế khi để cho nhân vật tự đánh giá mình: “Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!”. Chính đôi mắt cô đẹp như một ánh sao giữa bầu trời vừa gần mà lại vừa xa đã tạo cảm xúc bao anh lính lái xe qua cung đường Trường Sơn khói lửa. Cô thấy vui và tự hào về điều đó nhưng cô chưa dành riêng tình cảm cho một ai. Vậy cũng đủ cho ta nhận thấy Phương Định là một cô gái đẹp.
Bên cạnh vẻ đẹp về hình thức, Phương Định lôi cuốn người đọc bởi vẻ đẹp hồn nhiên, trong trẻo của tâm hồn. Vào chiến trường đã ba năm, đã quen với những thử thách nguy hiểm, giáp mặt hàng ngày với cái chết nhưng Phương Định cũng như đồng đội của cô không mất đi sự hồn nhiên trong sáng và những mơ ước về tương lai. Cô là người nhạy cảm hồn nhiên hay mơ mộng và thích hát. Cô đã kể rằng “Tôi thích nhiều bài hát. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận. Tôi thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng. Thích Ca-chiu-sa của hồng quân Liên Xô. Thích ngồi bó gối mơ màng: “Về đây khi mái tóc còn xanh xanh …”. Đó là dân ca Ý trữ tình giàu có, phải lấy giọng thật trầm. Thích nhiều”. Thấy mưa đá rơi ngoài hang cô vui thích cuống cuồng như trẻ con, đem cục đá vào cho Nho rồi lại chạy ra. Cơn mưa đá tan đi nhanh chóng, cô thẫn thờ không phải vì tiếc những viên đá mà vì cô nhớ đến mẹ, đến cái cửa sổ, đến những ngôi sao to trên bầu trời thành phố…
Là người nhạy cảm, nhưng cô lại không hay biểu lộ tình cảm của mình mà luôn tỏ ra kín đáo giữa đám đông. Người ngoài nhìn vào tưởng là kiêu kỳ nhưng kì thực cô lại là người rất giàu tình cảm. Cô yêu mến những người đồng đội trong tổ trinh sát mặt đường của mình và cả đơn vị nữa. Khi Nho bị thương vì sức ép của bom, Phương Định đã tiêm và chăm sóc cho Nho hết sức chu đáo. Đặc biệt Phương Định còn dành tình yêu và niềm cảm phục của mình cho tất cả những người chiến sĩ mà cô gặp hằng đêm trên trọng điểm của con đường vào mặt trận. Cô đã bộc bạch lòng mình: “Thực tình trong suy nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”.
Phương Định còn là người giàu lòng tự trọng, có tinh thần dũng cảm trong chiến đấu và là người có tinh thần trách nhiệm cao với công việc, không ngại gian khổ hy sinh. Phẩm chất đó của Phương Định đã được thể hiện rõ qua từng cảm giác, ý nghĩa dù chỉ thoáng qua của Phương Định trong một lần phá bom. Mặc dù đã rất quen với công việc nguy hiểm này, một ngày cô có thể phá đến năm quả bom, nhưng mỗi lần phá bom vẫn là một thử thách với thần kinh, cảm giác của Phương Định. Mỗi lần phá bom Phương Định lại có cảm giác là “Các anh cao xạ” ở trên kia đang dõi theo từng động tác, cử chỉ của cô. Cô hiểu các anh “không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới”. Và lòng tự trọng đã kích thích lòng dũng cảm của cô giúp cố lấy được tư thế “tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom..”. Ở bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của cô cũng trở nên sắc nhọn hơn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Sau khi đã đặt mìn cạnh quả bom chạy về nơi ẩn nấp cô căng thẳng chờ quả bom nổ “Liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai?”. Qua sự miêu tả chân thật, Phương Định hiện lên với vẻ đẹp nội tâm phong phú, tâm hồn trong sáng, sống có lí tưởng và trách nhiệm. Một vẻ đẹp đầy cao thượng.
Lê Minh Khuê đã miêu tả rất chi tiết, cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác, ý nghĩ. Mỗi lần phá bom là một thử thách với thần kinh. Ở bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác con của con người như cũng trở nên sắc nhọn hơn.
Lãng mạn là nét đẹp của những chàng trai, cô gái trên cung đường Trường Sơn khốc liệt, là chủ nghĩa anh hùng ca cách mạng, là đỉnh cao của một thời kỳ văn học. Mối tình đầy lãng mạn, đầy lý tưởng của Nguyệt, cô gái thanh niên xung phong và Lãm, anh bộ đội lái xe trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu hay tấm gương hy sinh của những cô gái thanh niên xung phong trong Khoảng trời – hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ:
Nhiều và còn biết bao nhiêu nữa những tấm gương hy sinh của những cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc… đã góp phần cho “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” (Lê Anh Xuân).
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật sinh động, chân thực và cách lựa chọn ngôi kể, giọng điệu trần thuật phù hợp với nhân vật kể tạo cho chuyện có giọng tự nhiên, thoải mái, trẻ trung và có chất nữ tính. Lời kể thường dùng những câu ngắn, nhịp nhanh, tạo được không khí khẩn trương trong hoàn cảnh chiến trường. Ở những đoạn hồi tưởng, nhịp kể chậm lại, gợi nhớ những kỉ niệm tuổi niên thiếu hồn nhiên, nhạy cảm của một cô học sinh thành phố thích mơ mộng. Truyện viết về chiến tranh, có những chi tiết, sự việc về bom đạn, chiến tranh, hi sinh, nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm, làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người trong chiến tranh. Lê Minh Khuê đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn, tư tưởng và những phẩm chất tốt đẹp của các cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó cũng chính là hình ảnh tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ hy sinh nhưng vẻ vang oai hùng.
….
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Khổ Cuối Bài Thơ Vội Vàng Của Xuân Diệu Sơ Đồ Tư Duy &Amp; 16 Bài Phân Tích 10 Câu Cuối Bài Vội Vàng trên website Ysdh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!