Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Tết Nguyên Đán 3 Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Mẫu Lớp 8 Hay Nhất # Top 16 Xem Nhiều | Ysdh.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Tết Nguyên Đán 3 Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Mẫu Lớp 8 Hay Nhất # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Tết Nguyên Đán 3 Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Mẫu Lớp 8 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Ysdh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Dàn ý thuyết minh về ngày Tết Nguyên đán (3 mẫu)

Thuyết minh về Tết Nguyên đán ngắn gọn

Thuyết minh về ngày Tết Nguyên đán chi tiết (9 mẫu)

Thuyết minh về nguồn gốc Tết Nguyên đán

Thuyết minh về phong tục cổ truyền ngày Tết

1. Mở bài:

Giới thiệu ngày Tết Nguyên Đán.

2. Thân bài

a. Khái niệm:

Tết Nguyên Đán là dịp lễ quan trọng nhất trong năm của người Việt, được tính theo lịch âm, với ba ngày tết chính (3 ngày Tân Niên) là mùng 1, mùng 2 và mùng 3 tháng Giêng âm lịch.

Tết là dịp mọi người cùng nhau sum họp, quây quần bên nhau.

b. Nguồn gốc:

Tết Nguyên Đán bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước Đông Á, do tập quán canh tác bắt đầu vào mùa vào những ngày đầu năm, tức là tiết đầu tiên trong 24 tiết khí trong năm thường gọi là tiết Nguyên Đán, sau này gọi là Tết Nguyên Đán.

Để cầu chúc cho mùa màng gieo cấy được thuận lợi, người dân thường chọn tiết khởi đầu trong năm này để cúng lễ, ăn mừng, vui chơi nhằm gây dựng không khí vui tươi, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng được bội thu.

c. Các hoạt động trong Tết Nguyên Đán:

Cúng ông Táo: Mua cá chép đem thả, làm cỗ cúng ông Táo ngày 23 tháng Chạp.

Cúng Tất Niên: Là một lễ cúng quan trọng và cần chuẩn bị tươm tất đủ đầy với các món ăn truyền thống.

Ngoài ra còn có lễ cúng Giao Thừa, lễ cúng trong 3 ngày Tân Niên cũng được thực hiện tương tự.

Gói bánh chưng chuẩn bị ăn Tết những ngày cuối năm là một dấu ấn, một đặc trưng không thể thiếu trong ngày tết Nguyên Đán và cho đến ngày hôm nay nó vẫn được duy trì như một phong tục đẹp đẽ.

Chơi hoa: Bên cạnh mai, đào ngày nay còn có muôn thứ hoa rực rỡ khác được dùng để chơi tết ví như cúc vạn thọ, hoa hồng, hoa mào gà, bách hợp, hoa ly thơm ngào ngạt, …

Ăn Tất Niên, đón Giao Thừa.

Xông đất: Gia chủ thường tự xông đất cho nhà mình, hoặc có thể nhờ một người thân thiết, hợp tuổi xông đất, cầu mong cho năm mới khởi đầu thuận lợi, nhiều may mắn.

Hái lộc: Mỗi một người xuất hành ra khỏi nhà, sau đó chọn hái cho mình một nhành cây, nhành hoa mang về nhà, với mục đích rước lộc vào nhà, cầu may mắn.

Chúc Tết: Trong những ngày tết mọi người thường có tục đến thăm và chúc tết những người thân thiết.

Đi chùa cầu may, lễ Phật, thể hiện một nét đẹp trong văn hóa tâm linh của người Việt.

3. Kết bài:

Nêu cảm nhận chung.

Cứ mỗi mùa xuân về, bao trái tim con người lại háo hức đón chờ. Tết nguyên đán từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa Việt. Nó không chỉ là ngày chào mừng năm mới mà còn là dịp để con người sum họp. Vì vậy không chỉ Việt Nam mới có ngày Tết mà nó còn được phổ biến rộng rãi ở một số nước thuộc châu Á.

Chữ Tết có nhiều cách gọi khác nhau như: Tiết, Tết, Tết cổ truyền, Tết Nguyên đán,… nhưng người Việt chúng ta thì thường hay gọi là “Tết Nguyên đán”. “Nguyên” và “đán” là hai chữ Hán mang ý nghĩa là đổi sang một buổi sáng hay một năm mới.

Tết Nguyên đán thực chất được bắt nguồn ở Trung Quốc vào thời Tam Hoàng và được tổ chức vào tháng giêng hằng năm. Tết Nguyên đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khác. Vì Trung Quốc và một số nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc dùng lịch pháp theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây).

Tết Nguyên Đán chia làm ba giai đoạn. Đầu tiên là thời gian giáp Tết, thường từ 23 tháng Chạp (ngày ông câu ông Táo). Gần đến Tết, mọi đơn vị đều được nghỉ làm, học sinh được nghỉ từ 27-28 âm lịch. Tiếp theo là ngày 30 hay còn gọi là Tất Niên. Ngày này mọi người tảo mộ ông bà hay những người thân trong gia đình đã khuất. Quan trọng nhất, vào tối 30, mọi người đều chuẩn bị đón giao thừa – thời khắc đặc biệt chuyển từ năm cũ sang năm mới – đón một khởi đầu mới. Từ xưa, phong tục của người dân Việt là đêm Tất Niên phải ở nhà làm mâm cơm cúng trời đất, ông bà tổ tiên và có tục lệ xông đất – tức người đầu tiên bước vào nhà sau 12 giờ đêm sẽ là người mang lại may mắn hay xui xẻo cho năm sau. Nhưng ngày nay, tục lệ đó đã phần nào bị lu mờ. Mọi người thường ra ngoài đón giao thừa: ở công viên hay nơi công cộng có thể ngắm pháo hoa rõ nhất. Quan niệm người xông đất cũng đã không còn nguyên vẹn. Theo tục xưa người xông đất phải là người không ở trong gia đình nhưng ngày nay khi người ta đi chơi đêm tất niên về đều tự coi là xông đất cho nhà mình.Ngày mùng 1 là ngày đầu tiên của năm mới, là ngày bắt đầu dịp lễ cổ truyền long trọng nhất của người Việt. Đây là dịp hội hè, vui chơi và cho những người tha hương tìm về với quê hương, gia đình, tưởng nhớ tổ tiên.

Tết đến, mọi người kiêng kị nóng giận, cãi cọ, quét nhà sợ mang lại điềm gở, mất tài mất lộc vào năm mới. Đây là dịp để mọi người tha thứ, hàn gắn, chuộc lỗi cho những điều không may đã xảy ra vào năm cũ. Ngày Tết của dân tộc Việt có rất nhiều ý nghĩa đặc biệt. Tết là lúc mọi nhà sum họp, quây quần bên nhau. Đó cũng là lúc mọi người cùng nhìn lại một năm cũ đã qua và ước nguyện cho một năm mới sắp tới. Tết giúp cho con người gần gũi, xích lại gần nhau hơn, tha thứ, bỏ qua cho nhau mọi lỗi lầm. Bởi thế, ai mà không nhớ Tết, không mong đến Tết?

Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có những phong tục, tập quán riêng. Tết Nguyên đán của người Việt Nam là một sự kiện đặc biệt mang nét văn hóa đặc sắc đã được lưu truyền qua bao thế kỷ. Mặc dù trải qua thời gian với bao biến động của lịch sử, các phong tục đã ít nhiều bị mai một và pha trộn nhưng đã là người Việt thì dù ở đâu, đi đâu, trái tim vẫn luôn hướng về cội nguồn dân tộc mình.

Tết Nguyên Đán Việt Nam có ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc, thể hiện sự trường tồn cuộc sống, khao khát của con người về sự hài hòa Thiên – Địa – Nhân.

Tết Nguyên Đán là sự biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trong tinh thần văn hóa nông nghiệp; với gia tộc và xóm làng trong tính cộng đồng dân tộc; với niềm tin thiêng liêng, cao cả trong đời sống tâm linh…

Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, Tết năm mới hay chỉ đơn giản: Tết) là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khác. Nguyên nghĩa của chữ “Tết” chính là “tiết”. Hai chữ “Nguyên Đán” có gốc chữ Hán; “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán” (Tết Nguyên Đán được người Trung Quốc ngày nay gọi là Xuân tiết, Tân niên hoặc Nông lịch tân niên).

Do cách tính của Âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên Đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc khác.

Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên Đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên Đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).

Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, là tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.

Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống gà, ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ ba có thêm lợn, ngày thứ tư sinh dê, ngày thứ năm sinh trâu, ngày thứ sáu sinh ngựa, ngày thứ bảy sinh loài người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng một cho đến hết ngày mồng bảy.

Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu đều mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, thăm lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà,… được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương của tuổi thơ yêu dấu. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về với cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn.

Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình cảm gia đình, tình cảm thầy trò, bệnh nhân với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri…

Tết cũng là ngày đoàn tụ với cả những người đã mất. Từ bữa cơm tối đêm 30, trước giao thừa, các gia đình đã thắp hương mời hương linh ông bà và tổ tiên và những người thân đã qua đời về ăn cơm, vui Tết với con cháu (cúng gia tiên). Trong mỗi gia đình Việt Nam, bàn thờ gia tiên có một vị trí rất quan trọng. Bàn thờ gia tiên ngày Tết là sự thể hiện lòng tưởng nhớ, kính trọng của người Việt đối với tổ tiên, người thân đã khuất với những mâm ngũ quả được lựa chọn kỹ lưỡng; mâm cỗ với nhiều món ngon hay những món ăn quen thuộc của người đã mất.

Từ đây cho đến hết Tết, khói hương trên bàn thờ gia tiên quyện với không khí thiêng liêng của sự giao hòa vũ trụ làm cho con người trở nên gắn bó với gia đình của mình hơn bao giờ hết. Để sau Tết Nguyên Đán, cuộc sống lại bắt đầu một chu trình mới của một năm. Mọi người trở về với công việc thường nhật của mình, mang theo những tình cảm gia đình đầm ấm có được trong những ngày Tết để hướng đến những niềm vui trong cuộc sống và những thành công mới trong tương lai.

Tết là ngày đầu tiên trong năm mới, mọi người có cơ hội ngồi ôn lại việc cũ và “làm mới” mọi việc. Việc làm mới có thể được bắt đầu về hình thức như dọn dẹp, quét vôi, sơn sửa trang trí lại nhà cửa. Sàn nhà được chùi rửa, chân nến và lư hương được đánh bóng. Bàn ghế tủ giường được lau chùi sạch sẽ. Người lớn cũng như trẻ con đều tắm rửa và mặc quần áo mới. Đây cũng là dịp mọi người làm mới lại về phần tình cảm và tinh thần để mối liên hệ với người thân được gắn bó hơn, tinh thần thoải mái, tươi vui hơn… Bao nhiêu mối nợ nần đều được thanh toán trước khi bước qua năm mới. Với mỗi người, những buồn phiền, cãi vã được dẹp qua một bên. Tối thiểu ba ngày Tết, mọi người cười hòa với nhau, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối quan hệ được tốt đẹp.

Người Việt Nam tin rằng những ngày Tết vui vẻ đầu năm báo hiệu một năm mới tốt đẹp sẽ tới. Năm cũ đi qua mang theo những điều không may mắn và năm mới bắt đầu mang đến cho mọi người niềm tin lạc quan vào cuộc sống. Nếu năm cũ khá may mắn, thì sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau.Với ý nghĩa này, Tết còn là ngày của lạc quan và hy vọng.

Tết là sinh nhật của tất cả mọi người, ai cũng thêm một tuổi vì thế câu nói mở miệng khi gặp nhau là mừng nhau thêm một tuổi. Người lớn có tục mừng tuổi cho trẻ nhỏ và các cụ già để chúc các cháu hay ăn chóng lớn và ngoan ngoãn, học giỏi; còn các cụ thì sống lâu và mạnh khoẻ để con cháu được báo hiếu và hưởng ân phúc.

Người Việt chọn ngày Tết làm cơ hội để tạ ơn. Con cái tạ ơn cha mẹ, cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên, nhân viên tạ ơn cấp chỉ huy. Ngược lại, lãnh đạo cũng cảm ơn nhân viên qua những buổi tiệc chiêu đãi hoặc quà thưởng để ăn Tết…

Với một hệ thống lễ nghi vô cùng phong phú và giàu ý nghĩa nhân văn sâu sắc, tết Nguyên Đán đã trở thành ý thức hệ dân tộc, thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tết Nguyên Đán là một phong tục đẹp mà nhân dân ta còn duy trì tới ngày nay. Thế nhưng trong thời kỳ toàn cầu hóa như hiện nay cách ăn Tết của người Việt Nam phần nào đã thay đổi. Một số tập tục trong ngày Tết xưa không còn phù hợp với xã hội hiện đại đã dần bị loại bỏ.

Ngày nay người dân ăn Tết đã có phần đổi khác hơn so với trước kia, dường như dân ta ăn Tết “tây hóa”dần đi, sự thay đổi đó phần nào được thể hiện qua cách đón tết và trong việc sắm tết.

Đời sống kinh tế được nâng cao đi kèm với những giá trị hưởng thụ về văn hóa tinh thần và vật chất, nhu cầu ăn ngon mặc đẹp là tự nhiên và có thể đáp ứng ngay khi cần chứ không phải đợi đến Tết như ngày xưa. Hơn nữa, ngày nay trong một năm có rất nhiều ngày lễ khác đang chi phối tầm quan trọng của ngày Tết cổ truyền. Vì vậy, dường như Tết bây giờ có phần nhạt hơn so với Tết xưa.

Trong đời sống hiện đại, việc sắm Tết cũng ”hiện đại” theo và sự ảnh hưởng văn hóa phương Tây rất rõ nét. Giờ đây người dân ít hào hứng với việc mua thực phẩm về tự chế biến mà đặt mua đồ đã chế biến sẵn cho tiện. Mâm cỗ ngày Tết giờ cũng phong phú hơn và đa dạng hơn. Bên cạnh những món ăn truyền thống của người Việt như bánh chưng xanh, giò, các món rau, món xào thì còn có những món ăn được du nhập từ Phương Tây.

Trải qua bao biến thiên của thời đại, đến nay, quan niệm về Tết đã có nhiều thay đổi cả về mặt khái niệm lẫn hành vi. Bây giờ người ta quan niệm là “nghỉ Tết”, “chơi Tết” chứ không còn là “ăn Tết”. Khi cái ăn, cái mặc không còn là vấn đề quan trọng trong ngày Tết thì người ta hướng đến tinh thần nhiều hơn. Tết hiện đại mọi người thích nghỉ ngơi thoải mái, đi chơi nhiều hơn, nhân dịp Tết nhiều gia đình đã lên lịch trình cho một chuyến du lịch với người thân trong nhà hoặc cùng bạn bè, đồng nghiệp.

Quà Tết bây giờ cũng khác. Trước đây, mọi người có thể chúc Tết nhau bằng cặp bánh, cân giò, với tấm lòng trân trọng mến thương. Bây giờ người ta có thể tặng nhau những món quà có giá trị cao nhưng tình cảm trong đó hầu như không có mà xen vào đó là lợi ích cá nhân, lợi ích kinh tế.

Quả thật, quá trình tiếp xúc văn hoá Đông – Tây đã làm cho Tết thay đổi, những đồ ăn nhanh, làm sẵn đã làm mất đi không khí chuẩn bị vui tươi của ngày tết. Trẻ con không còn ngồi xem bố mẹ, ông bà gói bánh chưng và mong chờ còn ít gạo vét để gói chiếc bánh ống với nhiều đậu và một miếng thịt to, không còn vui thú khi vùi củ khoai nướng trong lúc trông nồi bánh chưng, các cô thiếu nữ đã dần quên thói quen đi ngắm hoa đào, hoa mai trên phố chợ. Những điều thay đổi đó khiến nhiều người không khỏi chạnh lòng “bao giờ cho đến Tết xưa”.

Tuy nhiên, tiếp xúc với văn hóa phương Tây đã làm cho ngày Tết của người Việt có nhiều thứ mới lạ hơn, thực phẩm vừa ngon vừa phong phú đa dạng, những đồ ăn sẵn thật là thuận tiện, mâm cỗ cúng gia tiên có thêm chai rượu vang thì thật là sang trọng. Ngày Tết được đi du lịch với cả gia đình, bạn bè, đồng nghiệp khiến mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, gạt bỏ được những căng thẳng trong một năm làm việc vất vả, tìm được sự bình yên, thư thái trong tâm hồn.

Chúng ta không thể phủ nhận mặt tích cực của hội nhập văn hóa đem lại. Nếu chúng ta “khép” cửa “ăn Tết” với nhau thì Tết Việt đương nhiên chỉ là một sản phẩm của văn hóa thuần tuý đơn lẻ, nó sẽ không thể trở thành sản phẩm văn hóa đặc trưng của quốc gia trong mối quan tâm của bạn bè quốc tế. Sự mở cửa giao lưu, tiếp xúc lại chính là những phương thức tốt nhất giúp chúng ta giới thiệu đến bạn bè quốc tế về Tết cổ truyền của người Việt Nam. Vấn đề ở đây là chúng ta phải làm chủ được quá trình tiếp xúc với văn hóa phương Tây để tết cổ truyền của người Việt vẫn giữ được bản sắc riêng của mình mà không bị “ Tây hóa”.

Có thể nói, Tết Nguyên Đán vẫn là một sinh hoạt văn hóa vừa lưu giữ những giá trị truyền thống vừa thích nghi với nhịp sống hiện đại. Trong ngày Tết vẫn còn nhiều phong tục tốt đẹp và đậm tính nhân văn mà chúng ta cần giữ gìn và phát huy để Tết Nguyên Đán mãi là nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam.

Đến với Việt Nam, ta đến với nền văn hóa lâu đời, một nền văn hóa ăn sâu vào từng sinh hoạt thường ngày. Những tín ngưỡng trở thành cuộc sống của người dân Việt từ 4000 năm trở về trước và cho đến nay, những phong tục văn hóa tốt đẹp vẫn được lưu truyền và thể hiện thật rõ ràng trong những ngày lễ. Và, ta đang hướng tới ngày lễ lớn nhất của dân tộc, ngày lễ mà những văn hóa tốt đẹp được biểu hiện một cách trọn vẹn nhất: Tết cổ truyền – Tết Nguyên Đán.

Tết Nguyên đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam, theo ảnh hưởng của văn hóa Tết Âm lịch Trung Hoa và vòng văn hóa Đông Á. Nguyên nghĩa của từ “Tết” chính là “tiết”. Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã “phân chia” thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán. Hai chữ “Nguyên đán” có gốc chữ Hán: “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm, lúc mặt trời mọc. Người Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều phải thật sớm và mới. Do đó trước ngày Tết khoảng hơn 2 tuần, các gia đình đã sắm sửa cho ngày Tết. Họ thường quét dọn, trang trí nhà cửa, mua hoa, sắm thức ăn… thật chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả những vật dụng không cần thiết hoặc bị cho là đem lại điềm gở cũng bị vứt bỏ.

Tết chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều mang một vẻ sắc riêng của chính nó.

Ngày Tất niên có thể là ngày (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu). Đây là ngày gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm buổi tất niên. Buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày , (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, nó được gọi là Giao thừa. Để ghi nhận thời khắc này, người ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia tiên tại bàn thờ ở trong nhà mình và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ thì gọi là cúng Ông Ba Mươi. Một số cộng đồng khác thì có một phần cỗ dành để cúng chúng sinh, cúng những cô hồn lang thang không nơi nương tựa.

Sắp dọn bàn thờ Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau tùy theo từng nhà. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, Mặt Trăng và hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng. Phía sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Có nhà cũng cắm “cành vàng lá ngọc” (một thứ hàng mã) với sự cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc và buôn bán lãi gấp nhiều lần năm trước. Ở giữa có trục “vũ trụ” là khúc trầm hương dưới dạng khúc khủy và vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen hai cái đĩa giữa đèn và hương để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó). Trước bát hương để một bát nước trong để coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu và dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới.

Ba ngày đầu năm được coi là ba ngày hạn của Tết. Mọi người tin rằng những gì họ làm trong những ngày đầu năm sẽ ảnh hưởng đến năm mới của họ và người thân. “Ngày mồng Một tháng Giêng” là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc tết các ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha.

“Ngày mồng Hai tháng Giêng” là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, người ta chúc tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục Đi sêu.

“Ngày mồng Ba tháng Giêng” là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy. Trong những ngày này người ta thường đi thăm viếng, hỏi thăm nhau những điều đã làm trong năm cũ và những điều sẽ làm trong năm mới.

Nguồn gốc Tết có từ Trước Công Nguyên, trải qua bao nhiêu thế kỉ vẫn còn giữ lại những nét văn hóa rất đẹp, những nét văn hóa dần thành tín ngưỡng, giống như một thói quen, trở thành những tục lệ không thể thay đổi.

Như nói bên trên, công việc chuẩn bị cho Tết Nguyên Đán từ khoảng hai tuần trước Tết. Trong những việc mọi người chuẩn bị, về trang trí nhà cửa có câu đối, có hoa mai và hoa đào, về chuẩn bị lễ cúng bao gồm mâm ngũ quả, còn về ẩm thực Tết, bánh chưng là loại bánh cổ truyền không thể thiếu.

Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân “tồn cổ” vẫn còn trọng tục treo “câu đối đỏ” nhân ngày Tết. Những này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. Những câu đối hay nhất, đẹp nhất được treo trên ngưỡng cửa hoặc bàn thờ tổ tiên mang đến luồng gió nhớ nguồn, tôn trọng văn hóa ngàn đời của Người Việt, cũng như mang lại niềm tin những câu đối đỏ sẽ mang đến những điều may mắn và hạnh phúc.

Hai loại hoa chính của ngày Tết là hoa đào và hoa mai. Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân. Theo sự tích kể lại, xưa kia có hai vị thần trú ngụ trên một cây đào cổ có quyền lực che chở dân chúng trong vùng. Ma quỉ nghe danh hai vị thần đều sợ hãi, sợ hai vị thần rồi sợ luôn cả cây đào. Vào ngày đầu năm, hai vị thần phải lên chầu Ngọc Hoàng, vì thế, từ đó, mỗi dịp Tết, nhân dân đều cố gắng trang hoàng cành đào trong nhà để trừ ma quỉ khi không có hai vị thần ở bên cạnh. Hoa Mai, với miền Nam nước , nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới rất thích hợp môi trường cho hoa Mai đơm bông nảy mầm mỗi dịp Xuân về Tết đến. Màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong , theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. Đối với người miền Nam, nếu hoa Mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm ngày mùng một Tết thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc sẽ đến với cả gia đình trong năm đó.

Tết đến, dù công việc có bận rộn đến đâu hay có ở bất cứ phương nào, mỗi nhà đều tự chuẩn bị cho mình một mâm quả dâng lên tổ tiên. Mâm ngũ quả ngày Tết có ý nghĩa bao trùm là thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, lòng thành kính với tổ tiên. Ngoài ra tùy ở những góc độ khác nhau, mâm ngũ quả còn có các ý nghĩa khác nhau. Mâm ngũ quả là mâm gồm 5 loại trái cây khác nhau, mỗi loại tượng trưng cho một ước nguyện của gia chủ, thông qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng. Con số 5 thể hiện ước muốn của người Việt đạt được ngũ phúc lâm môn: Phú, quý, thọ, khang, ninh. 5 màu sắc cũng thể hiện ý nghĩa nguồn của cải 5 phương đưa về kính lên tổ tiên.

Ở miền Bắc, mâm ngũ quả đặt trên bàn thờ tổ tiên dịp Tết theo 5 sắc màu tượng trưng cho mong ước được ngũ phúc: giàu có, sang trọng, sống lâu, khỏe mạnh, bình yên. Theo thuyết Ngũ hành: Kim màu trắng, Mộc màu xanh, Thủy màu đen, Hỏa màu đỏ, Thổ màu vàng. Mâm ngũ quả thường theo 5 sắc màu đó để phối trí. Miền Bắc thường bày 5 loại quả có 5 màu khác nhau như: chuối/táo màu xanh; bưởi (hoặc phật thủ), cam, quýt màu vàng; hồng hoặc táo tây, ớt màu đỏ; roi, mận, đào hoặc lê màu trắng; hồng xiêm hoặc nho đen, măng cụt, mận màu đen. Ở miền Nam bạn sẽ thường thấy các loại trái cây như: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung, dừa, thơm,… đọc lai lái giống như “cầu vừa đủ xài” hay “cầu vừa đủ sung”.

Ẩm thực Tết vô cùng đa dạng. Mâm cỗ ngày Tết phổ biến là từ 8 đến 10 món khác nhau. Cụ ta quan niệm: ăn là để thưởng thức, bởi vậy nên dù nhiều món nhưng mỗi món chỉ bày vào một bát hay đĩa nhỏ. Cùng với một chút công phu trong cách trình bày, mâm cỗ Tết sẽ vừa đa dạng, hài hòa, lại đẹp mắt.

Trong những món ăn trên mâm cỗ, làm sao có thể thiếu bánh chưng và bánh dày? Thứ bánh độc nhất là đặc biệt nhất của Việt Nam! Sự tích về thức bánh cao quí này có lẽ ai cũng đã thuộc lòng. Bánh chưng và bánh dày do Lang Liêu – con Vua Hùng làm thành, truyện được ghi trong Lĩnh Nam Chích Quái (thế kỷ XV). Câu nói: “Các vật trên trời đất và mọi của quý của người không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi người khỏe mạnh và ăn không bao giờ chán, các vật khác không thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng trưng hình đất và trời rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ” cũng đã nói lên ý nghĩa tốt đẹp của hai loại bánh này.

Thêm vào một nét văn hóa đẹp mà không thể thiếu của Tết đó chính là tục lệ xông đất đầu năm. Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở. Nhiều người quan niệm ngày Mồng Một “khai trương” một năm mới. Họ cho rằng vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt.

Nhắc đến Tết làm sao có thể quên tục lệ thăm viếng và mừng tuổi? Thăm viếng họ hàng là để gắn kết tình cảm gia đình họ hàng. Lời chúc tết thường là sức khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công… Những chuyến thăm hỏi này giúp gắn kết mọi người với nhau, xóa hết những khúc mắc của năm cũ, vui vẻ đón chào năm mới. Đến thăm những người bạn bè, đồng nghiệp và những người thân thiết với mình để chúc họ những câu tốt lành, giúp tình cảm bạn bè gần gũi hơn.

Người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay “hồng bao”, gọi là “lì xì” với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn.

Tết là ngày sum vầy, đoàn tụ của gia đình bao gồm con cháu, cha mẹ, họ hàng, làng xóm; Bao gồm những người đang sống và những người đã khuất, đó là sợi dây vô hình xuyên suốt trong tâm thức người Việt Nam, gắng kết giữa các thế hệ, gắn kết tình cảm gia đình, gắn kết tình làng nghĩa xóm. Mang rất nhiều ý nghĩa, giá trị nhân văn chỉ có thể cảm nhận từ tâm thức của mỗi chúng ta.

……

Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của Việt Nam, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Tết Nguyên Đán Việt Nam có ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc, thể hiện sự trường tồn cuộc sống, khao khát của con người về sự hài hòa Thiên – Địa – Nhân. Tết Nguyên Đán là sự biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên trong tinh thần văn hóa nông nghiệp; với gia tộc và xóm làng trong tính cộng đồng dân tộc; với niềm tin thiêng liêng, cao cả trong đời sống tâm linh…

Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền) diễn ra từ mùng 1 tháng giêng cho đến hết ngày rằm nguyên tiêu. Chữ “tết” là cách đọc lệch chữ “tiết” mà ra. Nguyên Đán nghĩa là khởi đầu buổi sớm. Như vậy, Tết Nguyên Đán có nghĩa là tiết khởi đầu của một năm. Trong khoảnh khắc giao hòa giữa năm cũ và năm mới, con người tiến hành các hoạt động chào mừng, vui chơi, thăm hỏi vừa tổng kết, tiễn đưa một năm đi qua và chào đón năm mới với niềm vui và hi vọng mới.

Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau.

Đến đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.

Mỗi thời đại đều có quy định khác nhau về ngày Tết Nguyên Đán nhưng nhìn chung cách thức tín ngưỡng không có gì khác nhau. Trong những ngày này, người ta thường tưng bừng tổ chức các lễ hội, cuộc vui, tổ chức ăn uống thật linh đình, ca hát rộn ràng, náo nhiệt. Ngày tết còn là dịp tiến hành nghi thức xuống đồng. Thường thì nhà vua sẽ tự mình xuống ruộng để nêu gương, cổ vũ tinh thần lao động sản xuất cho nhân dân với niềm tin một năm bộ thu, tất thắng.

Tết Nguyên Đán biểu hiện sự giao cảm giữa trời đất và con người với thần linh. Mùa xuân là mùa của sự sống nảy nở. Lúc này cây cỏ, muôn vật đều tràn trề sức sống. Sự giao thoa giữa trời-đất-người trong mối ràng buộc bền chặt. Hòa quyện trong đó là thế giới thần linh gắn kết. Ngày tết là dịp để biểu thị sự tin tưởng và tôn vinh các thần linh đã phò trợ cho con người trong một năm qua.

Tết Nguyên Đán là ngày đoàn viên của mọi gia đình. Người Việt có quan niệm dù đi đâu về đâu cũng phải hướng về cội. Ngày tết là dịp để đoàn tụ, mối quan hệ họ hàng, làng xóm được mở rộng, gắn kết, ràng buộc lẫn nhau. Các giá trị đạo đức cũng được đề cao nhắc nhở. Ngày tết còn là ngày để tri ân, trả ơn trả nghĩa, ôn cố tri tân, có nghĩa có tình.

Tết là dịp để tưởng nhớ ông bà tổ tiên. Trong những ngày này, bàn thờ tổ tiên được trang hoàng đẹp đẽ, tràn đầy mâm cỗ, lúc nào cũng nghi ngút khói hương. Sống ngày hôm nay, tri ân những người đã khuất, để lại thành quả cho cháu con. Đó cũng là nét đẹp trong văn hóa truyền thống các nước Á Đông. Tết là dịp để cháu con tỏ lòng hiếu thuận với cha mẹ. Trong những ngày này, con cháu thường chăm sọc, mua sắm, tặng quà cho cha mẹ, mong cha mẹ thêm nhiều sức khỏe mà hưởng phúc cùng cháu con.

Với tốc độ quốc tế hóa cao, sự giao lưu ồ ạt văn hóa Đông – Tây, cộng thêm sự phát triển và phổ biến của công nghệ thông tin, sự xuất hiện các trào lưu, tư tưởng trong thời đại mới làm cho vai trò và ý nghĩa của ngày tết cổ truyền dân tộc có phần mờ phai. Ngày nay, người ta không còn xem trọng ngày tết cổ truyền như trước đây nữa. Thậm chí, có ý kiến cho rằng ta nên bỏ đi và ăn tết như các nước phương Tây. Đây quả là một suy nghĩ lệch lạc, hết sức sai lầm. Nhưng qua đó để thấy rằng, việc không xem trọng ngày tết cổ truyền cùng tất cả các hoạt động và ý nghĩa của nó đã ảnh hưởng rất lớn đến nền văn hóa và thuần phong mỹ tục của dân tộc mà cha ông ta đã dày công gây dựng trong mấy nghìn năm qua.

Giới trẻ ngày nay thường sính ngoại, đua đòi lối sống thực dụng phương Tây, chạy theo đời sống vật chất mang tính hưởng thụ cao nên không thích kiểu lễ nghi truyền thống nữa. Hiện thực đó đặt ra cho chúng ta một suy nghĩ là làm thế nào để gìn giữ được nét văn hóa tốt đẹp này trong tương lai khi mà giới trẻ Việt Nam đang có dấu hiệu sống thực dụng và xói mòn nhân cách, đạo đức hiện nay?

Đất nước Việt Nam ta tự hào là mảnh đất nghìn năm văn hiến, nền văn hóa đậm chất tín ngưỡng phương Đông với nhiều phong tục tập quán trong mọi mặt đời sống. Phong tục của nước ta vô cùng đa dạng và phong phú, trở thành truyền thống lâu đời hàng ngàn năm nay và dường như đã trở thành luật tục ăn sâu vào nếp sống của con người, đặc biệt là những phong tục cổ truyền ngày Tết.

Một trong những dịp lễ quan trọng bậc nhất trong năm của người Việt chính là Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Tết ta, Tết cổ truyền. Tết Việt Nam cũng giống như các nước Đông Á, tính vào khoảng thời gian đầu năm âm lịch, ngày đầu tiên của một năm theo lịch âm được gọi là mùng một Tết. Gắn liền với dịp lễ Tết là sự xuất hiện của những phong tục, phong tục cổ truyền ngày Tết bao gồm toàn bộ những hoạt động sống của con người đã được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử, mang tính ổn định thành nề nếp và được cộng đồng tiếp thu, thừa nhận, ông cha ta đã truyền bá từ đời này sang đời khác và thế hệ con cháu vẫn tiếp tục gìn giữ phát huy. Trong dịp Tết, có rất nhiều phong tục được diễn ra theo từng thời điểm khác nhau và ý nghĩa khác nhau. Trước hết đó là những phong tục cho thời điểm tất niên (cuối năm), phong tục cúng ông Công – ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp, khi ấy mọi người sẽ dọn dẹp bếp của nhà mình và mua cá chép vàng đem thả để tiễn ông Công ông Táo về trời sau một năm. Bên cạnh đó còn có hoạt động gói bánh chưng, bánh tét, nhà nào cũng phải có nồi bánh chưng mới gọi là có không khí Tết, mọi người thường gói vào ngày gần Tết 28 – 30 tháng Chạp. Trên bàn thờ tổ tiên là một mâm ngũ quả được bày biện đẹp mắt đầy đủ, và thêm vào đó là mâm cơm cúng hết năm hay còn gọi là làm cơm tất niên, như là một bữa cơm chào tạm biệt một năm cũ. Năm mới là mọi thứ phải mới mẻ, tươi sáng vì vậy trước Tết sẽ có phong phục lau dọn nhà cửa, dù người ta có bận đến mấy ngày cuối năm cũng phải dọn nhà cho sạch sẽ để đón năm mới được bình an, may mắn hơn. Thời khắc giao thừa cũng có phong tục cúng giao thừa, thường mọi người sẽ bày một chiếc bàn nhỏ ra ngoài cửa hoặc ngoài sân với lọ hoa, đĩa quả và nén hương để cầu nguyện những ước muốn trong năm mới. Thời điểm tân niên (đầu năm) còn có nhiều phong tục đặc biệt như xông đất, chúc tết, mừng tuổi, lễ chùa đầu năm. Việc chọn người xông đất là người đầu tiên bước vào cửa nhà bạn trong ngày đầu năm thường là người nhanh nhẹn, xởi lởi để năm mới được an yên, vui vẻ. Những lời chúc Tết thường là chúc nhau sức khỏe, tài lộc, bình an và hạnh phúc, những tờ tiền mới đựng trong bao lì xì đỏ để mừng tuổi cho con cháu, thêm một tuổi mới chăm ngoan học giỏi. Phong tục treo những câu đối đỏ trong nhà tượng trưng cho mong ước may mắn, phúc lộc và an khang. Việc duy trì những phong tục cổ truyền ngày Tết nói trên của người Việt không chỉ đơn giản theo thói quen, theo phong trào cộng đồng mà đó đã trở thành truyền thống văn hóa Việt, là ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa để không bị mai một đi.

Theo thời gian và sự thăng trầm của lịch sử dân tộc, những phong tục của người Việt nói chung và phong tục ngày Tết nói riêng đã không ngừng biến đổi theo hoàn cảnh xã hội, có nhiều phong tục đã mất đi nhưng vẫn còn những phong tục đã trở thành nét văn hóa không thể thiếu và không thể mất đi của người Việt Nam.

Văn Mẫu Lớp 8: Dàn Ý Thuyết Minh Về Trò Chơi Dân Gian (3 Mẫu) Thuyết Minh Về Một Phương Pháp (Cách Làm)

Đề bài: Hãy tự chọn một đồ chơi, trò chơi quen thuộc và lập dàn bài thuyết minh cách làm, cách chơi trò chơi đó. Yêu cầu trình bày rõ ràng, mạch lạc.

Dàn ý Thuyết minh trò chơi dân gian

a) Mở bài

Giới thiệu về trò chơi dân gian bạn sẽ thuyết minh: kéo co, ô ăn quan, nhảy dây, trốn tìm,…

b) Thân bài

* Giải thích khái niệm:

Trò chơi dân gian là những hoạt động vui chơi giải trí do quần chúng nhân dân sáng tạo ra và được lưu truyền tự nhiên qua nhiều thế hệ, phản ánh đời sống tinh thần, văn hóa của dân tộc.

Trò chơi dân gian là hình thức sinh hoạt cộng đồng được nhân dân tiếp cận và gắn bó nhiều nhất, diễn ra mọi lúc, mọi nơi, không hạn định về mặt thời gian, không gian.

* Thuyết minh về một trò chơi cụ thể

– Tìm hiểu về nguồn gốc của trò chơi:

Trò chơi ra đời khi nào, lấy cảm hứng từ đâu?

Ngày nay trò chơi có còn phổ biến không hay được lưu giữ tại bảo tàng?

– Nêu những đặc điểm đặc trưng của trò chơi:

Số lượng người chơi

Độ tuổi thường chơi

Thời gian chuẩn bị

Thời gian chơi

Các kỹ năng cần thiết

– Các dịp tổ chức trò chơi (lễ hội, thi đấu…)

– Đối tượng tham gia trò chơi: độ tuổi, giới tính, …

– Giới thiệu về cách thức chơi và luật chơi

– Ý nghĩa của trò chơi dân gian:

Giải trí, tạo niềm vui cho con người

Nét văn hóa truyền thống của dân tộc.

c) Kết bài

Khẳng định lại ý nghĩa của trò chơi dân gian trong đời sống tinh thần của con người.

Dàn ý thuyết minh về trò chơi nhảy dây

I. Mở bài

Giới thiệu chung: Nhảy dây là trò chơi mà các bạn gái ở lứa tuổi thiếu niên nhi đồng rất thích. Trò chơi nhảy dây được chơi trong lúc rảnh rỗi ở nhà hoặc vào giờ ra chơi ở trường.

II. Thân bài: Thuyết minh về trò chơi nhảy dây

1. Giới thiệu chung về trò chơi

Đối tượng chơi thường là các bạn gái ở tuổi thiếu nhi.

Trò chơi cần một khoảng đất vừa đủ rộng cho vòng dây quay.

Dây dùng để nhảy có thể là dây thừng, dây cao su, dây thun,…

2. Cách chơi

– Có hai kiểu nhảy dây là nhảy một người hoặc nhảy nhiều người.

+ Cách thứ nhất (nhảy một người):

Dùng một sợi dây đủ dài. Hai đầu dây cuốn vài vòng vào bàn tay để giữ cho chắc. Đặt chân lên chính giữa sợi dây, kéo cao cho vừa tầm người là được.

Người nhảy đứng thẳng, hai cổ tay quay đều dây về phía trước cho qua đầu, khi dây chạm sát đất thì nhảy lên. Vừa nhảy vừa đếm, để dây vướng chân là mắc lỗi, là phải dừng lại. Người thắng là người có số lần nhảy nhiều nhất.

+ Cách chơi thứ hai (nhảy nhiều người):

Hai người quay dây đứng cách nhau một khoảng cách đủ để dây chùng vừa chạm đất là được.

Quay dây đều tay. Lần lượt từng người hoặc hai, ba người cùng nhảy. Trò chơi này cần sự khéo léo. Nếu để dây chạm trúng chân thì phải ra quay dây cho các bạn khác vào nhảy.

III. Kết bài: Cảm nghĩ của em về trò chơi nhảy dây

Trò chơi nhảy dây vừa vui vừa bổ ích, rèn luyện sự nhanh mắt, nhanh chân và sức khỏe dẻo dai, có ích cho quá trình phát triển cơ thể của tuổi thiếu nhi.

Trò chơi gắn liền với tuổi thơ.

Dàn ý Thuyết minh trò chơi kéo co

I. Mở bài: giới thiệu về trò chơi kéo co

Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, thì cuộc sống con người trở nên tiện nghi và hiện đại hơn. Tuy nhiên, việc gì cũng có mặt lợi và mặt hại có nó, bất kỳ việc gì cũng thế. Nhất là khi các trò chơi hiện đại ra đời thì các trò chơi dân gian bị lãng quên, không ai nhắc tới hay chơi nó. Trò chơi dân gian rất thú vị và có tính giải trí rất cao nhưng bị lãng quên. Một trò chơi dân gian ngày xưa nhiều người chơi như trò chơi kéo co, một trò chơi rất thú vị.

II. Thân bài: thuyết minh về trò chơi kéo co

1. Lịch sử trò chơi kéo co:

Trò chơi kéo co đã xuất hiện từ thời cổ đại

Thời Ai Cập người ta không dung dây thừng để chơi

Advertisement

Kéo co được sử dụng phổ biến ở Trung Quốc vào thời Đường

Tại Hy Lạp, khoảng 500 năm trước Công nguyên, kéo co được xem như là một môn thi đấu và bài tập thể lực cho các môn thể thao khác.

2. Luật chơi trò kéo co:

Luật kéo co ở mỗi nơi khác nhau

Kéo co có 2 đội, mỗi đội dùng sức của mình giành chiến thắng

Kéo đến khi nào bên kia ngã về phía mình, giữa sợi dây có buộc một cái khăn đỏ,bên nào kéo đoạn dây có buộc khăn đỏ qua vạch của mình trước là thắng.

Có khi cả hai bên đều là nam, có khi bên nam, bên nữ.

III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của trò chơi kéo co

Đây là một trò chơi thú vị và vui vẻ

Chúng ta nên giữ gìn các trò chơi gian dân như thế này.

Thuyết Minh Về Chiếc Xe Đạp (13 Mẫu) – Văn Mẫu Lớp 8

Dàn ý thuyết minh về chiếc xe đạp

Có thể lựa chọn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng cả hai đều phải tập trung giới thiệu được vấn đề mà đề bài yêu cầu: Thuyết minh về chiếc xe đạp.

Năm 1817, chiếc xe đạp đầu tiên được ra đời bởi một nam tước người Đức có tên là Baron von Drais. Ông đã có ý tưởng từ trước đó về một cỗ máy dùng sức người giúp ông đi nhanh hơn, cụ thể là quanh khu vườn hoàng gia. Và chiếc xe đạp đầu tiên ấy có tên là “Cỗ máy chạy bằng chân”, được làm hoàn toàn từ gỗ. Nó đã giúp ông đi được 13km chỉ trong 1 giờ đồng hồ mà thôi. Cách sử dụng chính là người ngồi lên sẽ dùng chân đẩy về phía sau, bánh xe sẽ đẩy xe lên phía trước. Nhưng chiếc xe này khó giữ được thăng bằng và sau này bị chính phủ cấm.

Năm 1885, chiếc xe với hai bánh bằng nhau và khá đầy đủ các bộ phận ra đời. Chiếc xe này chính là nguyên mẫu của chiếc xe đạp ngày nay chúng ta vẫn hay sử dụng.

Sau nhiều năm, một số bộ phận được thay đổi để sử dụng tốt hơn và bền hơn. Cho đến ngày nay, chiếc xe đạp hiện đại đã khá hoàn chỉnh và đảm bảo an toàn.

Tay lái: Tay lái của xe đạp bao gồm có phần tay nắm để lái, phanh và chuông. Tay lái xe đạp thường sẽ là dạng hình đường uốn lượn lên xuống, phần tay lái cong hướng vào phía người lái. Phần phanh thì sẽ có phanh trước và phanh sau. Phía tay trái bao giờ cũng là phanh trước, còn tay phải sẽ là phanh sau. Phanh xe là một phát minh vô cùng tuyệt vời giúp chúng ta làm chủ tốc độ trong quá trình sử dụng điều khiển xe.

Bánh xe: Là 2 vòng tròn lớn để xe lăn đi trên đường. Chiếc bánh xe này sẽ có những nan hoa cố định để bánh xe không bị biến dạng. Ở vành bánh xe chính là lốp xe, bên trong lốp là săm xe được bơm khí vào để bánh xe có thể lăn được trên đường.

Yên xe: Thường có hình như đầu một chú chó vậy. Đây là nơi người lái xe sẽ ngồi lên để có thể đạp. Yên xe thường được bọc một lớp bông và da mềm để ngồi cho thoải mái.

Ngoài ra còn có rất nhiều bộ phận khác như đèn, giỏ xe…

Đầu tiên là loại xe đạp phổ biến mà chúng ta vẫn thường thấy, các bà các mẹ hay đi. Tay lái cong cong, xe khá là cao.

Xe đạp địa hình: Loại xe này có lốp to, có hệ thống giảm xóc rất tốt, phù hợp để đi trên đường đất đá gồ ghề, đường núi. Tuy nhiên xe hơi nặng và đi hơi lâu.

Hybrid bike: Loại xe này phù hợp đi trong thành phố, có tốc độ cao.

Ngoài ra còn một số loại xe đạp khác như xe đạp gấp, xe đạp tối giản… tùy thuộc vào nhu cầu của người tiêu dùng mà có sự lựa chọn khác nhau.

– Công dụng:

Trước hết thì xe đạp là công cụ giúp con người di chuyển thô sơ nhất, đơn giản nhất và dễ sử dụng nhất. Gần như chỉ mất vài ngày luyện tập là đã có thể đi xe đạp được.

Đạp xe là một cách để giúp cho cơ thể khỏe mạnh, giảm lượng mỡ thừa, lượng calo thừa, giúp chúng ta có một vóc dáng đẹp.

– Cách sử dụng: Cách dùng rất đơn giản, chỉ cần ngồi lên yên, đặt chân lên bàn đạp và đạp. Xe sẽ di chuyển về phía trước, khi ta cần phanh lại đã có tay phanh…

Xe đạp khá nhỏ gọn nên chúng ta có thể cất ở một chỗ có diện tích nhỏ, hoặc có thể tháo ra cất đi nếu chúng ta không sử dụng trong thời gian dài.

Cần chú ý tra dầu cho xích thường xuyên, đồng thời kiểm tra độ căng của hai bánh xe để tránh bị hỏng lốp…

Nêu tình cảm, cảm nghĩ của chính mình về công dụng cũng như lịch sử, hình dáng của xe đạp.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 1

Trong bất kỳ chúng ta, không ai là không biết đến chiếc xe đạp. Xe đạp từ lâu đã trở thành một đồ dùng, hay nói chính xác hơn là một phương tiện giao thông đi lại vô cùng phổ biến, thông dụng và quen thuộc đối với mỗi chúng ta.

Xe đạp là một phương tiện giao thông có hai bánh, dùng bàn đạp để điều khiển, gồm hai bánh xe được gắn vào cùng một khung xe, bánh này sau bánh kia. Đa số xe đạp chuyển động nhờ lực đạp của người điều khiển, và giữ thăng bằng nhờ định luật bảo toàn mômen quán tính. Xe đạp đã được đưa vào sử dụng vào thế kỷ 19 ở châu Âu. Cho đến năm 2003, xe đạp có số lượng hơn một tỷ trên toàn thế giới, gấp đôi so với xe ô tô. Xe đạp là phương tiện chính của giao thông ở nhiều khu vực. Xe đạp cũng là một hình thức phổ biến cho giải trí, và đã được điều chỉnh để sử dụng như đồ chơi trẻ em, thiết bị trong phòng tập thể dục, các ứng dụng trong quân đội và cảnh sát, dịch vụ chuyển phát nhanh, và đua xe đạp. Hình dạng cơ bản và cấu hình của một xe đạp đứng, hoặc xe đạp an toàn, đã thay đổi rất ít kể từ khi mô hình đầu tiên của xe đạp được phát triển vào khoảng năm 1885. Tuy nhiên, nhiều chi tiết đã được cải thiện, đặc biệt là kể từ sự ra đời của vật liệu hiện đại và thiết kế được máy tính hỗ trợ (CAD). Những hỗ trợ này cho phép gia tăng số lượng các thiết kế chuyên dụng cho nhiều loại xe đạp.

Xe đạp được coi là phương tiện giao thông thân thiện với môi trường sinh thái. Nó được sử dụng phổ biến ở nhiều nước có thu nhập đầu người thấp, như các nước châu Phi, Việt Nam, Trung Quốc, như phương tiện đi lại hằng ngày chính. Ở nhiều nước phương Tây, xe đạp được dùng nhiều hơn cho các hoạt động thể thao hay dã ngoại. Việc sử dụng xe đạp cho giao thông thường nhật cũng được khuyến khích tại các nước này với đường dành riêng cho xe đạp. Phương tiện này cũng thích hợp cho các đường phố nhỏ hẹp của các đô thị cổ, như Amsterdam ở châu Âu. Phát minh ra xe đạp đã có ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội, cả về văn hóa và việc thúc đẩy công nghiệp hiện đại hóa. Một số thành phần cuối cùng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của ô tô đầu tiên được phát minh để sử dụng trong xe đạp, bao gồm vòng bi, bánh hơi, đĩa xích điều khiển, và vành bánh xe được cân chỉnh bằng hàng loạt tăm kim loại.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 2

Từ khi ra đời cho tới nay, chiếc xe đạp cùng từng ngày biến đổi theo sự sáng tạo và trí tưởng tượng của con người, nhưng nhìn chung nó đều gồm các phần chính sau: hệ thống truyền lực, hệ thống chuyển động, hệ thống lái, hệ thống phanh, khung chịu lực và yên xe. Hệ thống truyền lực của tất cả các xe đạp đều gồm bàn đạp, đùi, trục giữa, đĩa, xích là líp. Trong hệ thống chuyển động của xe đạp có bánh xe cả trước và sau bao gồm trục, moay – ơ, nan hoa, vành, săm lốp. Ở đây, lốp xe được đặc biệt quan tâm.

Cùng với hệ thống truyền lực, hệ thống chuyển động là hệ thống phanh: tay lái, cổ phuốc. Hệ thống này giúp con người có thể điều khiển xe đạp một cách nhẹ nhàng, linh hoạt và dễ dàng nhất trong mỗi lần chuyển hướng. Hệ thống phanh lại giúp con người làm chủ được tốc độ để có thể giữ được độ an toàn mỗi khi tham gia điều khiển chiếc xe.

Rất nhiều người chúng ta quan tâm và yêu thích xe đạp, song không phải ai cũng biết hết những điều thú vị về nó. Nhiều bài báo đã giới thiệu chiếc xe đạp dài nhất thế giới tên là “Tandem” gây nhiều tò mò với chiều dài 20 mét và có đến tận 35 người có thể cùng lúc ngồi trên nó. Giải đua xe đạp là một trong những giải đấu thể thao hàng đầu thu hút sự quan tâm của rất nhiều người. Nhưng đa phần ta chỉ thấy các cuộc đua của đàn ông mà phải đến năm 1984, lần đầu tiên phụ nữ được tham gia các môn đua xe đạp tại Thế vận hội.

Với công năng hữu ích cũng như những giá trị thú vị khác, dù trong cuộc sống đã xuất hiện thêm nhiều phương tiện giao thông tiện lợi, nhanh chóng và tiết kiệm sức hơn nhưng xe đạp vẫn đóng một vai trò quan trọng, được sử dụng phổ biến và là lựa chọn hàng đầu của rất nhiều người.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 3

Xe đạp gần gũi quen thuộc và là phương tiện giao thông cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển… thuận tiện cho việc di chuyển trong quãng đường ngắn.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay dễ dàng. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe đạp có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe, dựa trên trục bánh trước. Một số bộ phận phụ như cắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước, bộ phận chắn xích, chuông,…

Trong kháng chiến chống Mỹ, chiếc xe đạp cùng lực lượng thanh niên xung phong vận chuyển lương thực, vũ khí trên tuyến đường Trường Sơn, góp phần quét sạch quân xâm lược Mỹ ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuộc sống hiện đại chiếc xe đạp đang dần bị thay thế nhưng trong tương lai người dân sẽ sử dụng xe đạp lại nhiều để giảm thiểu tình trạng ô nhiễm, xe đạp vẫn mãi là phương tiện di chuyển an toàn, tiện lợi và dễ sử dụng nhất.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 4

Xe đạp được cấu tạo bởi nhiều bộ phận. Quan trọng là hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa, ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước sau. Khi đi, ta ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động, đĩa chuyển động theo kéo dây xích làm ổ líp và bánh sau chuyển động, tạo lực đẩy để xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn và nhiều răng cưa. Ổ líp chuyển động 2 vòng thì đĩa mới chuyển động một vòng. Bánh xe hình tròn, có nhiều thanh sắt được ghép chụm lại ở tâm bánh gọi là vành. Đường kính bánh xe được thiết kế tùy theo đối tượng, mục đích sử dụng nhưng lớn gấp nhiều lần ổ líp. Ban đầu, bánh xe chỉ làm bằng gỗ, khi chạy xe bị xóc. Dần dần người ta dùng cao su, lốp ở ngoài, săm ở trong, khi bơm đủ hơi, có lực đàn hồi, xe giảm xóc.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe và dàn đèo hàng hoặc giỏ đựng. Yên xe lắp ở trên khung xe thường bọc da, là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, kích thước đa dạng. Cũng có chiếc xe lắp bộ phận này ở phía trước, dựa trên trục bánh xe trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có cái chắn xích và hai chắn bùn, chuông báo ở tay cầm để xin đường, đèn lắp ở bánh xe. Khi trời tối, đạp xe tạo ra nhiệt, nhiệt chuyển hóa thành điện năng làm đèn sáng có tác dụng soi đường. Xe đạp có thể lắp giỏi hoặc không. Giỏ xe được làm bằng nhiều chất liệu, màu sắc phong phú dùng đựng hoặc tăng vẻ đẹp cho xe.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 5

Xe đạp xuất hiện đầu tiên tại Paris và được phát minh bởi một nam tước người Đức. Chiếc xe “tổ tiên” này được làm từ gỗ và đã được chỉnh sửa rất nhiều để có thể trở nên tiện dụng như ngày hôm nay. Xe đạp cũng gồm nhiều loại như xe đạp thường, xe đua, xe đổ đèo,… tùy vào mục đích sử dụng của từng loại.

Xe đạp là loại phương tiện giao thông xuất hiện không quá sớm nhưng lại là cơ sở cho sự ra đời của xe máy và ô tô. Xe đạp có hệ thống điều khiển gồm ghi đông, tay lái giúp ta chuyển hướng đi của xe và bộ phanh để dừng xe lại khi đang di chuyển. Phía trước tay lái thường có giỏ xe, rất thuận tiện để đựng đồ khi cần thiết. Vì thế mà các mẹ, các bà hay dùng xe đạp đi chợ để có thể giảm bớt sức lực mang xách. Để mang lại sự thoải mái cho người điều khiển, xe đạp được lắp một yên vừa với một người ngồi, phần phía trên bánh sau được lắp một giá đèo để có thể chở người hoặc vật kích cỡ to đi cùng. Phần giá đèo này thường được làm bằng kim loại, ngồi có thể hơi đau nên người ta hay lắp thêm một đệm êm để được thoải mái hơn.

Di chuyển trên phố xá không bao giờ là dễ dàng, và các nhà thiết kế cũng đã tạo ra nhiều bộ phận phụ khác cho xe đạp để việc đi lại được an toàn hơn. Đằng sau và trước xe thường được gắn đèn tín hiệu để báo hiệu cho xe khác khi di chuyển trong đêm tối. Xe cũng được gắn một chuông để báo hiệu mỗi khi chuyển hướng. Vào những ngày trời mưa, đi xe thường bị bắn bùn nước nên xe đạp được trang bị thêm hệ thống chắn bùn để giảm thiểu lượng bùn đất bắn lên xe và người di chuyển.

Không sử dụng động cơ như xe máy, ô tô nên đôi khi, đi xe đạp sẽ tốn nhiều công sức hơn, đặc biệt là với những quãng đường dài. Tuy nhiên, xe đạp lại có rất nhiều công dụng. Thứ nhất là gọn nhẹ, dễ mang, thậm chí là vác chứ không cồng kềnh như xe máy, ô tô. Vì không sử dụng máy nên khi đi trời mưa, ta sẽ không phải lo lắng vì chết máy. Quan trọng hơn, đây là phương tiện giao thông rất an toàn với môi trường. Vì hoàn toàn sử dụng lực chân của con người nên xe không sử dụng các chất như xăng, dầu, những loại tài nguyên đang dần cạn kiệt và khan hiếm. Xe đạp cũng không thải ra lượng khí thải nào khi di chuyển. Và vì trọng lượng nhẹ hơn nhiều so với các loại phương tiện khác nên xe đạp không gây hỏng đường, lún đường và dễ điều khiển hơn. Để xe có tuổi thọ lâu thì người sử dụng cần thường xuyên lau chùi sạch sẽ, kiểm tra xem xe có bị rít không để tra thêm dầu, và cũng cần trang bị cho xe hệ thống phanh chắn để việc di chuyển được an toàn hơn, đặc biệt là khi đi lại ở những con đường dốc và ngoằn ngoèo.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 6

Xe đạp xuất hiện đầu tiên ở Châu Âu và được nhập vào nước ta vào thế kỉ XX. Xe đạp là phương tiện chuyển động bằng sức người, cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển… rất thuận lợi cho việc đi lại. Năm 1790, lần đầu tiên xuất hiện xe đạp bắt đầu với cái célérifère, do bá tước Sivrac sáng chế. Nó là một cái máy bằng gỗ,không có bánh xe để lái; việc chuyển hướng đòi hỏi phải lắc mạnh phần trước của xe. Tuy nhiên vào năm 1849, có thể một thợ cơ khí Đức là Heinrich Fischer đã sáng chế ra pê đan trước hai anh em Michaux. Pêđan ở bánh trước khiến cho bánh trước có kích thước lớn (lớn hơn bánh sau) để tăng quãng đường đi trong mỗi vòng đạp. Cải tiến này đã mang lại tên gọi mới cho thiết bị, bicycle (xe đạp). Tại Việt Nam, xe đạp hiện đang bị thay thế dần bởi xe máy tại các đô thị lớn. Nhưng tại các vùng nông thôn, xe đạp vẫn còn là một phương tiện giao thông được nhiều người chọn lựa.

Xe đạp có cấu tạo gồm: hệ thống chuyển động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống chuyển động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi người ta ngồi lên yên xe, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích, làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên xe dựa trên trục của bánh xe sau, có thể chở được hàng tạ. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe dựa trên trục bánh trước.

Ngoài các bộ phận như trên, xe đạp còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh xe sau và trước, các bộ phận chắn xích che phía trên xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp ở gần phía tay cầm để xin đường lúc cần thiết.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ chiếc xe đạp là phương tiện quan trọng, góp phần vận chuyển lương thực vũ khí lên tuyến đường trường sơn quét sạch bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi thống nhất đất nước. Ngày nay chiếc xe đạp là phương tiện rất thuận tiện cho mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là các em học sinh ngày nay đi lại trên con đường đến với trí thức.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 7

Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển đã cho ra đời nhiều loại phương tiện giúp việc đi lại, di chuyển của con người trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn. Trong số đó, phương tiện gần gũi nhất mà hầu như bất cứ ai cũng có đó là chiếc xe đạp. Xe đạp có nguồn gốc từ châu Âu. Qua nhiều lần cải tiến, chúng ta có được chiếc xe đạp hoàn chỉnh như ngày hôm nay. Xe đạp bắt đầu du nhập vào Việt Nam khoảng đầu thế kỉ 20. Từ đó đến nay, nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta.

Phanh xe có nhiệm vụ làm cho xe đi chậm lại hay dừng hẳn nếu cần thiết. Hệ thống chuyển động gồm có khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ líp, ổ bi, đĩa, bánh xe. Khung xe như xương sống của xe, thường làm bằng kim loại. Khi ngồi trên yên xe, chúng ta đặt hai chân vào bàn đạp, tác dụng một lực vào bàn đạp. Bàn đạp quay làm cho bánh xe di chuyển. Đường kính của đĩa răng cưa lớn hơn ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, giỏ hàng phía trước và giá đèo hàng phía sau. Yên xe là chỗ ngồi của người lái xe, có thể điều khiển tùy vào chiều cao mỗi người. Giỏ hàng và giá đèo hàng có thể chuyên chở một khối lượng từ 3-10 kg. Bên cạnh đó còn có một số bộ phận phụ như hệ thống chắn bùn, chuông xe và đèn tín hiệu đặc biệt hữu ích khi di chuyển vào ban đêm.

Đi xe đạp thường xuyên sẽ có hiệu quả trong việc hình thành các cơ, đốt cháy calo giúp cơ thể săn chắc, giúp các khớp khỏe mạnh, cải thiện chức năng tim phổi. Bên cạnh việc rèn luyện thể chất, xe đạp còn giúp cải thiện sức khỏe tâm lý. Đạp xe là một hoạt động giải trí bổ ích mà không mất tiền, tinh thần được thư thái, luôn cảm thấy vui vẻ và sống chan hòa hơn.

Hiện nay, khi ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nóng bỏng toàn cầu, xe đạp càng có ý nghĩa hơn khi góp phần bảo vệ môi trường vì không thải ra khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Các nước phát triển đều khuyến khích người dân đạp xe để giữ cho không khí trong lành hơn.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 8

Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển công nghệ ngày một tiên tiến hơn, ngày càng có rất nhiều những phương tiện để giúp cho việc đi lại của chúng ta. Đó là xe máy xe đạp ô tô và cả máy bay nữa. Thế nhưng đối với rất nhiều người hiện nay thì một chiếc xe đạp để có thể đi lại cũng không thể thiếu được. Chiếc xe đạp đã trải qua một thời gian khá dài nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị của nó đối với tất cả mọi người.

Vậy chiếc xe đạp được bắt nguồn từ đâu? Xe đạp thì rất nhiều người biết nhưng nếu hỏi nó được bắt nguồn từ đâu thì không mấy ai hiểu rõ. Chiếc xe đạp được phát minh ra ở Châu Âu và được du nhập đến nước ta vào đầu khoảng thế kỉ hai mươi. Xe đạp là phương tiện giao thông chuyển động bằng sức người cấu tạo đơn giản dễ điều khiển và rất thuận lợi cho chúng ta trong việc đi lại. Nó đã gắn liền với con người rất nhiều từ những năm tháng kháng chiến nhưng bây giờ xe đạp không còn phổ biến ở những thành phố lớn nữa. Nó đã bị nhấn chìm bởi các thiết bị hiện đại các phát minh mới hơn so với xe đạp.

Cấu tạo của xe đạp gồ có hệ thống điều khiển và chuyên chở. Hệ thống xe gồm khung xe bàn đạp trục ở giữa dây xích đĩa ổ líp hai trục ổ bi và hai bánh trước sao. Khi đi người ta ngồi lên trên yên xe tay cầm ghi đông chân đạp bàn đạp cho trục xe chuyển động đĩa chuyển động kéo theo dây xích cũng chuyển động làm quay ổ líp và bánh sau tạo lực cho xe chuyển động đẩy xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn so với ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi so với răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng rồi thì ổ líp đã chuyển động được hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động là bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 750mm, gấp mười lần so với đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay được một vòng thì bánh xe lăn được một quãng đường dài. Ổ líp sẽ quay làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn so với ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi so với răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng rồi thì ổ líp đã chuyển động được hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động là bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 750mm, gấp mười lần so với đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay được một vòng thì bánh xe lăn được một quãng đường dài. Ổ líp sẽ quay làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Nhờ có bộ phận phanh mà người đi xe có thể đi nhanh hoặc đi chậm khi cần thiết tùy vào từng trường hợp. Hệ thống chuyên chở gồm yên xe bộ phận đèo hàng hoặc chở giỏ hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe tùy vào từng chiều cao của mỗi người mà yên xe được chỉnh cao thấp khác nhau. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên dựa trên trục bánh xe sau có thể chở được cả hàng tạ, giỏ đựng hàng được gắn thêm phía đầu xe dựa trên trục bánh trước.

Hiện nay ở các thành phố lớn số lượng xe máy quá nhiều khiến cho ách tắc giao thông lại gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi phương tiện giao thông công cộng phát triển rộng rãi thì xe đạp vẫn là một phương tiện cá nhân không thể thiếu vừa sạch sẽ lại tiện lợi.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 9

Xe đạp do nhiều bộ phận tạo thành, chủ yếu là hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa, ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước sau. Người đi xe đạp ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo dây xích làm chuyển động ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn 2 lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn 2 vòng. ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp, như vậy ổ líp quay một vòng thì bánh xe đã lăn được một quãng dài. ổ líp quay nhanh sẽ làm xe chạy nhanh.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm xoay được qua cổ xe có ổ bi nhằm lái cho bánh xe trước đi theo phương hướng mong muốn. Hai cái phanh lắp hai đầu tay cầm, điều khiển cho tốc độ xe khi đang chạy nhanh có thể chậm lại. Hai tay cầm ở ghi đông vừa là tay lái, vừa là chỗ nắm để giữ cho người đi xe ngồi vững trên xe.

Bộ phanh gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh làm cho má phanh ép vào hai bên vành xe tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe chạy chậm lại hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe có thể dừng xe theo ý muốn.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có cái chắn xích và hai chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước, có đèn xe lấy nguồn điện từ đinamô lắp ở trước càng xe, và đèn tín hiệu lắp ở phía sau, có thể có chuông lắp gần chỗ tay cầm.Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động không gây ô nhiễm. Đi xe đạp là một cách vận động cơ thể như một hoạt động thể thao.

Hiện nay xe máy quá nhiều, có cơ lấn lướt xe đạp, vừa gây ách tắc giao thông, vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi phương tiện giao thông công cộng phát triển, xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch sẽ vừa tiện lợi.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 10

Nếu có ai hỏi tôi, tổ tiên của tôi có từ khi nào thì tôi sẽ kiêu hãnh trả lời: “Xe đạp đã đi qua gần hai thế kỉ”. Sử sách ghi lại rằng, cách chúng ta từ rất lâu ở xứ sở Ai Cập cổ đại, người ta đã chứng minh được nơi đây đã xuất hiện một loại xe hai bánh chuyển động bằng cách dùng hai chân để đạp. Tuy nhiên, phải đến năm 1817 thì thì các loại mẫu xe đạp mới được sử dụng rộng rãi.

Mọi người đừng nhìn bề ngoài mà tưởng tôi có cấu trúc đơn giản. Thực ra bên trong tôi lại có khá nhiều bộ phận phức tạp. Cấu tạo của tôi nói riêng và anh chị em tôi nói chung đều gồm hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650 mm hay 700 mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy, ổ líp quay một vòng thì bánh xe lăn được một quãng dài. Ổ líp quay sẽ làm cho tôi chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Ngoài các bộ phận chính như trên, tôi còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước (gác-đờ-bu), có bộ phận chắn xích che phía trên sợi dây xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp gần chỗ tay cầm để xin đường lúc cần thiết.

Tôi rất tự hào khi mình là loại giao thông thuận tiện trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Nếu sử dụng tôi sẽ không gây ô nhiễm môi trường do chuyển động bằng sức người. Ngoài ra, tôi cũng giúp người đi rèn luyện thể thao, nâng cao sức khỏe. Vì đi xe đạp sẽ giúp tăng cường sức khỏe tim mạch, giúp cho cơ bắp săn chắc, làm cho vòng eo thêm thon gọn, đồng thời đi xe đạp ít nhất 20 phút mỗi ngày còn tăng tuổi thọ, giảm stress và tăng sức mạnh hệ xương và những kĩ năng phối hợp.

Nhớ ngày hai buổi đến trường, tôi chở những niềm vui và nỗi buồn của một thời ngây ngô, dễ thương để khi chia xa rồi “ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu…”. Những chiều trốn học, tôi lại cùng họ túm năm tụm ba đàn đúm với những trò chơi nhất quỷ nhì ma để đến tận bây giờ tôi chẳng thể nào quên những ngày tháng của “tuổi thơ dữ dội”. Khi mưa tôi cũng vội vã cùng các cô cậu học trò, khi nắng tôi lại thong dong cùng những người bạn ấy.

Xã hội càng ngày phát triển, công nghệ ngày càng tiên tiến, tôi nghĩ những phương tiện giao thông hiện đại sẽ thuận lợi hơn đối với mọi người. Nhưng tôi vẫn tự hào khi mình là một người bạn đồng hành, một người bạn biết cảm thông và chia sẻ. Tôi sẽ luôn đi cùng con người theo những nhịp đi của cuộc sống để đưa mọi người đến với thành công.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 11

Xe đạp xuất hiện đầu tiên tại Đức, do Baron Karl von Drais phát minh vào năm 1817. Mô hình xe đạp này được làm từ gỗ, gắn với hai bánh xe và được di chuyển bằng cách người lái dùng hai chân để đẩy. Năm 1839, xe hai bánh được gắn với các thiết bị cơ khí đầu tiên ra đời tại Scotland, đó một người làm thợ rèn sáng tạo. Vào năm 1865, hai người anh em nhà Michaux quá quá trình nghiên cứu đã quyết định lắp thêm bàn đạp vào xe cho bánh xe trước. Qua bao thời gian , xe đạp ngày càng được cải tiến một cách gọn nhẹ hơn, thuận tiện hơn rất nhiều. Từ đó ,nhiều loại xe đạp khác nhau cũng được ra đời.

Việc sử dụng xe đạp với số lượng lớn đã cho thấy tính tiện ích của loại xe này. Thứ nhất, xe đạp giá thành không quá cao, người dùng có mức thu nhập thấp cũng có thể sở hữu cho mình một chiếc mà không cần phải quá phân vân hay chần chừ khi mua. Thứ hai, đây là phương tiện giúp bảo vệ môi trường tốt nhất, những khói bụi của xe máy, xa hơi khiến ta mệt mỏi nhưng đi trên chiếc xe đạp môi trường sẽ được trong lành hơn rất nhiều. Thứ ba, xe đạp giúp tiện lợi trong việc di chuyển ở những con đường nhỏ, ngõ ngách mà các phương tiện khác không vào được, ít bị tắc đường ở đô thị hơn, nhờ vậy mà những vụ tai nạn sẽ giảm hơn nếu mọi người chọn xe đạp làm phương tiện. Ngoài ra, xe đạp còn giúp cho con người rèn luyện được sức khoẻ dẻo dai khi luyện tập. Tuy nhiên, bên cạnh đó, xe đạp còn có những khuyết điểm khó có thể khắc phục. Giá thành rẻ nên nó không quá bền, dễ bị hỏng hóc khi va chạm với các phương tiện lớn hơn. Nếu đi đường xa bằng xe đạp thì rất mệt và tốn nhiều thời gian hơn rất nhiều, xe cũng không chở được quá nhiều đồ như xe máy, hay ô tô. Tuy vậy, xe đạp vẫn là lựa chọn rất hữu ích cho đời sống của con người.

Trong chiến tranh, xe đạp là phương tiện vận tải lương thực tiếp tế cho quân đội. Xe cùng người vào ra chiến trận, mang vũ khí, đạn dược, cũng là phương tiện giao liên kỳ diệu góp phần vào thắng lợi của bộ đội ta. Khi hoà bình, xe cùng người mẹ, người cô đưa hàng rong quá mọi nẻo đường để bán, cùng những cô cậu học sinh ngày ngày đến trường trong tà áo trắng xinh. Xe đạp đã gắn bó với con người thật bình dị và tự nhiên như thế. Dù trong lao động, trong chiến đấu, trong hôm nay và cả những mai sau, xe vẫn mãi song hành cùng người trên những con đường yêu thương.

Xe đạp cũng được đi vào nhiều trang thơ, lời văn, khúc hát của nghệ thuật Việt Nam. Tôi còn nhớ câu hát thiết tha trong bài họa phượng: “Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng. Em chở mùa hè của tôi đi đâu..”

Hay trong lời thơ chân thành:

Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều phương tiện hiện đại mới ra đời nhưng xe đạp vẫn có chỗ đứng riêng trong lòng người sử dụng. Hy vọng rằng tôi, các bạn và tất cả mọi người sẽ chăm đi xe đạp hơn để bảo vệ môi trường xanh đẹp.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 12

Chiếc xe đạp được phát minh ra ở Châu Âu và được nhập vào nước ta khoảng đầu thế kỉ XX. Xe đạp là phương tiện giao thông chuyển động bằng sức người, cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển… rất thuận lợi cho việc đi lại.

Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi, người ta ngồi lên yên xe, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích (sên), làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy, ổ líp quay một vòng thì bánh xe lăn được một quãng dài. Ổ líp quay sẽ làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe đạp có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước (gác-đờ-bu), có bộ phận chắn xích che phía trên sợi dây xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp gần chỗ tay cầm để xin đường lúc cần thiết.

Vào cuối thế kỉ XIX, bánh xe đạp còn làm bằng gỗ, nẹp sắt, do đó đi rất xóc. Người đầu tiên sáng chế ra chiếc lốp xe bằng cao su là Đân-lớp, một hộc sinh nước Anh. Từ một lần suýt ngã vì vấp phải ống cao su dẫn nước, Đân-lớp đã nghĩ ra cách cuộn ống cao su cho vừa vành bánh xe rồi bơm hơi căng lên thay cho gỗ và nẹp sắt. Phát minh của Đân-lớp được đăng kí chính thức vào năm 1880. Về sau, lốp xe đạp có thêm chiếc săm bơm căng hơi nằm bên trong có lực đàn hồi, xe chạy êm hẳn.

Trong kháng chiến 9 năm chống Pháp, chiếc xe đạp đã cùng dân công thồ hàng phục vụ cho bộ đội đánh thắng trận Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Trong kháng chiến chống Mĩ, chiếc xe đạp lại cùng lực lượng thanh niên xung phong vận chuyển lương thực, vũ khí trên tuyến đường Trường Sơn, góp phần quét sạch quân xâm lược Mĩ ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày nay, chiếc xe đạp là phương tiện đi lại rất thuận lợi cho nhiều tầng lớp trong xã hội, nhất là các bạn học sinh ngày ngày đến trường học tập.

Hiện nay, ở các thành phố lớn, số lượng xe máy quá nhiều, vừa gây ách tắc giao thông vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai, khi phương tiện giao thông công cộng phát triển rộng rãi thì xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch sẽ vừa tiện lợi.

Thuyết minh về chiếc xe đạp – Mẫu 13

Xe đạp xuất hiện đầu tiên ở châu Âu và du nhập vào Việt Nam vào thế kỉ XX. Chiếc xe đạp đầu tiên được sáng chế ra bởi một công tước người Đức với nguyên liệu bằng gỗ và qua nhiều giai đoạn phát triển và hoàn thiện đã trở thành chiếc xe đạp gọn nhẹ như hiện nay. Tại Việt Nam, xe đạp đang dần bị thay thế bằng các loại phương tiện khác nhưng ở các miền quê hình ảnh xe đạp vẫn còn xuất hiện rất nhiều.

Xe đạp gồm có ba hệ thống chính: hệ thống chuyển động, hệ thống chuyên chở và hệ thống điều khiển. Hệ thống chuyển động gồm có khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, đĩa olip, hai trục, và hai bánh. Khi người ta ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp tạo lực cho trục xe chuyển động kéo theo sự chuyển động của các bộ phận còn lại và làm quay bánh xe giúp cho xe di chuyển. Hệ thống chuyên chở gồm có yên xe đủ chỗ cho một người ngồi trong lúc đạp xe, giỏ xe để đựng đồ, gác-ba-ga sau yên xe để cho một người nữa ngồi khi đi chung. Hệ thống điều khiển có ghi đông với hai tay cầm giúp cho người điều khiển có thể điều chỉnh hướng đi của xe một cách dễ dàng và nhẹ nhàng. Đi kèm với ghi đông còn có hai phanh trước và sau có thể giúp người lái dừng lại đột ngột. Một số loại xe sẽ lắp thêm hệ thống đi-na-mô để chiếu sáng khi di chuyển hoặc khóa xe ở bánh.

Tuy cấu tạo khá đơn giản nhưng chúng ta cũng cần biết cách chăm sóc cho người bạn đồng hành này. Người dùng nên thường xuyên lau rửa sạch sẽ để chiếc xe có một vẻ ngoài thật đẹp, tra dầu định kì cho xe để không bị rít, đặc biệt chú ý tới hệ thống phanh, tránh tình trạng phanh không ăn hoặc đứt phanh sẽ gây nên nguy hiểm rất lớn cho người sử dụng đặc biệt ở những con đường dốc, ngoằn ngoèo, lắm phương tiện qua lại.

Chiếc xe đạp đã gắn bó với bao thế hệ học sinh, hiện lên với bóng trắng thướt tha của tà áo dài hay kiên cường kề vai cùng các chiến sĩ chở đồ tiếp tuyến cho các chiến sĩ nơi mặt trận trong những cuộc chiến lịch sử của dân tộc. Chiếc xe đạp đã trở thành một phần kí ức của bao người dân Việt Nam.

Thuyết Minh Về Chiếc Xe Đạp Lớp 9 Hay Nhất – Dàn Ý, Văn Mẫu Về Xe Đạp

Hướng dẫn làm bài văn thuyết minh về cái xe đạp lớp 9 lớp 8 có dàn ý và bài viết tham khảo hay nhất

Kể từ khi bắt đầu biết nhận thức về thế giới này, con người đã trải qua hàng vạn năm lịch sử. Ở mỗi thời đại, chúng ta đều có những thành tựu, phát minh quan trọng góp phần thay đổi xã hội loài người. Thời còn ăn lông ở lỗ, nhờ khám phá ra lửa mà chúng ta biết sưởi ấm, làm chín thức ăn và xua đuổi thú dữ. Sau đó, con người dần sáng tạo ra những công cụ lao động, đàn ông săn bắn, đàn bà hái lượm. Kể từ đó đến nay, nhờ sự lao động không ngừng nghỉ và óc sáng tạo vô biên, biết bao vật dụng khác đã ra đời với mục đích làm cho cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn. Với trí tò mò muốn tìm hiểu thế giới, con người không cho phép bản thân chỉ ngồi im một chỗ. Và những phương tiện giao thông ra đời đã đáp ứng nhu cầu ấy. Ban đầu chỉ là những phương tiện thô sơ như xe ngựa, xe bò, dần dần con người đã phát minh ra những phương tiện hiện đại và hiệu quả hơn. Trong số đó, nhắc đến đầu tiên phải kể đến xe đạp. Để làm bài thuyết minh về xe đạp, chúng ta cần tìm hiểu về nguồn gốc của nó, tiếp theo miêu tả những bộ phận của xe và vai trò của xe đạp trong cuộc sống hàng ngày.

Xe đạp thường gắn liền với thời học sinh có rất nhiều mẫu xe đạp khác nhau​

Giới thiệu về cái xe đạp

Nguồn gốc: xe đạp có nguồn gốc ở châu Âu và du nhập vào Việt Nam khoảng đầu thế kỉ 20

Hệ thống điều khiển:

Ghi đông: tay lái

Bộ phanh: giúp điều khiển xe

Hệ thống chuyên chở: yên xe, giỏ hàng phía trước và giá đèo hàng phía sau

Hệ thống chuyển động:

Khung xe: phần chính của xe

Bàn đạp, trục giữa, ổ líp, ở bi, đĩa, bánh xe: giúp xe di chuyển

Công dụng của xe đạp:

Là một phương tiện giao thông quen thuộc

Giúp giải trí, thư giãn, tăng cường sức khỏe

Đi xe đạp giúp bảo vệ môi trường

Vệ sinh, lau chùi khi xe bẩn

Khẳng định lại vai trò và ý nghĩa của xe đạp

Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển đã cho ra đời nhiều loại phương tiện giúp việc đi lại, di chuyển của con người trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn. Trong số đó, phương tiện gần gũi nhất mà hầu như bất cứ ai cũng có đó là chiếc xe đạp.

Xe đạp có nguồn gốc từ châu u. Qua nhiều lần cải tiến, chúng ta có được chiếc xe đạp hoàn chỉnh như ngày hôm nay. Xe đạp bắt đầu du nhập vào Việt Nam khoảng đầu thế kỉ 20. Từ đó đến nay, nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta.

Cấu tạo của xe đạp gồm 3 phần chính là hệ thống điều khiển, hệ thống chuyển động và hệ thống chuyên chở. Hệ thống điểu khiển gồm có ghi đông và phanh xe. Ghi đông có hình dáng đặc biệt giống như số 3. Ghi đông vừa là tay lái vừa giúp chúng ta giữ vững thăng bằng. Nhờ có ghi đông, chúng ta có thể điều khiển xe quẹo trái, quẹo phải theo ý muốn. Phanh xe có nhiệm vụ làm cho xe đi chậm lại hay dừng hẳn nếu cần thiết. Hệ thống chuyển động gồm có khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ líp, ổ bi, đĩa, bánh xe. Khung xe như xương sống của xe, thường làm bằng kim loại. Khi ngồi trên yên xe, chúng ta đặt hai chân vào bàn đạp, tác dụng một lực vào bàn đạp. Bàn đạp quay làm cho bánh xe di chuyển. Đường kính của đĩa răng cưa lớn hơn ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi. Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, giỏ hàng phía trước và giá đèo hàng phía sau. Yên xe là chỗ ngồi của người lái xe, có thể điều khiển tùy vào chiều cao mỗi người. Giỏ hàng và giá đèo hàng có thể chuyên chở một khối lượng từ 3-10 kg. Bên cạnh đó còn có một số bộ phận phụ như hệ thống chắn bùn, chuông xe và đèn tín hiệu đặc biệt hữu ích khi di chuyển vào ban đêm.

Xe đạp là loại phương tiện vô cùng hữu ích trong cuộc sống của chúng ta. Xe đạp sẽ là lựa chọn tối ưu khi ta di chuyển với khoảng cách gần hay những nơi đường chật, hẹp, nhiều ngóc ngách nhỏ. Bên cạnh đó, xe đạp còn thích hợp khi đi dã ngoại, tập thể dục rèn luyện sức khỏe. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra những ích lợi không ngờ khi chúng ta chăm chỉ đi xe đạp. Đi xe đạp thường xuyên sẽ có hiệu quả trong việc hình thành các cơ, đốt cháy calo giúp cơ thể săn chắc, giúp các khớp khỏe mạnh, cải thiện chức năng tim phổi. Bên cạnh việc rèn luyện thể chất, xe đạp còn giúp cải thiện sức khỏe tâm lí. Đạp xe là một hoạt động giải trí bổ ích mà không mất tiền, tinh thần được thư thái, luôn cảm thấy vui vẻ và sống chan hòa hơn. Hiện nay, khi ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nóng bỏng toàn cầu, xe đạp càng có ý nghĩa hơn khi góp phần bảo vệ môi trường vì không thải ra khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Các nước phát triển đều khuyến khích người dân đạp xe để giữ cho không khí trong lành hơn. Trong thời chiến, xe đạp là phương tiện đắc lực giúp chúng ta vận chuyển lương thực, thuốc men, vũ khí, đạn dược cho tiền tuyến xa xôi. Những chiếc xe đạp cùng con người rong ruổi trên khắp các nẻo đường đất nước, từ đồng bằng lên miền núi, vượt qua những cánh rừng rộng lớn, những ngọn núi cao hiểm trở.

Với nhu cầu của con người hiện đại, người ta đã sản xuất ra những chiếc xe đạp chuyên dụng. Có xe đạp bốn bánh cho trẻ con, xe dùng để di chuyển hàng ngày, xe đạp thể thao, xe leo núi… Để chiếc xe đạp sử dụng được lâu bền hơn, chúng ta cần vệ sinh, lau chùi cho xe, tránh đi vào đường nhiều ổ voi, ổ gà.

Dù trong tương lai nhiều phương tiện hiện đại có ra đời đi chăng nữa thì xe đạp vẫn sẽ mãi là người bạn thân thiết, đồng hành cùng con người trên những chặng đường. Xe đạp tuy có giản dị nhưng vai trò của nó trong đời sống không thể nào thay thế được.

Nhiều mẫu xe đạp cách điệu, xe đạp thể thao cũng được nhiều người ưa chuộng​

Nếu có ai hỏi tôi, tổ tiên của tôi có từ khi nào thì tôi sẽ kiêu hãnh trả lời: “Xe đạp đã đi qua gần hai thế kỉ”. Sử sách ghi lại rằng, cách chúng ta từ rất lâu ở xứ sở Ai Cập cổ đại, người ta đã chứng minh được nơi đây đã xuất hiện một loại xe hai bánh chuyển động bằng cách dùng hai chân để đạp. Tuy nhiên, phải đến năm 1817 thì thì các loại mẫu xe đạp mới được sử dụng rộng rãi.

Mọi người đừng nhìn bề ngoài mà tưởng tôi có cấu trúc đơn giản. Thực ra bên trong tôi lại có khá nhiều bộ phận phức tạp. Cấu tạo của tôi nói riêng và anh chị em tôi nói chung đều gồm hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.

Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi, người ta ngồi lên yên xe của tôi, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích (sên), làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650 mm hay 700 mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy, ổ líp quay một vòng thì bánh xe lăn được một quãng dài. Ổ líp quay sẽ làm cho tôi chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng (gác-ba-ga) lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được hàng tạ. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe, dựa trên trục bánh trước.

Tôi rất tự hào khi mình là loại giao thông thuận tiện trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Nếu sử dụng tôi sẽ không gây ô nhiễm môi trường do chuyển động bằng sức người. Ngoài ra, tôi cũng giúp người đi rèn luyện thể thao, nâng cao sức khỏe. Vì đi xe đạp sẽ giúp tăng cường sức khỏe tim mạch, giúp cho cơ bắp săn chắc, làm cho vòng eo thêm thon gọn, đồng thời đi xe đạp ít nhất 20 phút mỗi ngày còn tăng tuổi thọ, giảm stress và tăng sức mạnh hệ xương và những kĩ năng phối hợp.

Không chỉ vậy, tôi còn là một người bạn thân thiết với những ai đã từng đi qua quãng đời học sinh. Với các cô cậu học trò, dù xa trường đã bao nhiêu năm rồi thì tôi luôn tin chắc rằng hình ảnh của tôi vẫn in đậm trong tâm trí họ, chẳng thể nào phôi phai. Những trưa hè đổ lửa, những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng hồng hay chở mùa hè của người con trai 18 tuổi thuở nào để khắc nỗi nhớ lên cây.

Nhớ ngày hai buổi đến trường, tôi chở những niềm vui và nỗi buồn của một thời ngây ngô, dễ thương để khi chia xa rồi “ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu…”. Những chiều trốn học, tôi lại cùng họ túm năm tụm ba đàn đúm với những trò chơi nhất quỷ nhì ma để đến tận bây giờ tôi chẳng thể nào quên những ngày tháng của “tuổi thơ dữ dội”. Khi mưa tôi cũng vội vã cùng các cô cậu học trò, khi nắng tôi lại thong dong cùng những người bạn ấy.

Xã hội càng ngày phát triển, công nghệ ngày càng tiên tiến, tôi nghĩ những phương tiện giao thông hiện đại sẽ thuận lợi hơn đối với mọi người. Nhưng tôi vẫn tự hào khi mình là một người bạn đồng hành, một người bạn biết cảm thông và chia sẻ. Tôi sẽ luôn đi cùng con người theo những nhịp đi của cuộc sống để đưa mọi người đến với thành công.

Ngoài bài văn thuyết minh về chiếc xe đạp thường phổ biến ở các vùng nông thôn thì còn rất nhiều bài thuyết minh về các đồ dùng hằng ngày hoặc các dụng cụ học tập, con vật, cây cối trong mục văn mẫu.

Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Một Cuốn Sách Mà Em Yêu Thích Dàn Ý &Amp; 12 Bài Thuyết Minh Cuốn Sách Lớp 9

TOP 12 bài Thuyết minh về cuốn sách mà em yêu thích SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về ý nghĩa, thông điệp mà mỗi cuốn sách mang tới cho chúng ta.

Mỗi cuốn sách mang một thông điệp, một ý nghĩa riêng, mở ra trước mắt chúng ta chân trời tri thức mới. Với 12 bài thuyết minh cuốn sách Không gia đình, Thi nhân Việt Nam, Cảm ơn người lớn, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Đắc nhân tâm, Hạt giống tâm hồn…. sẽ giúp các em trong quá trình hoàn thiện bài văn của mình.

1. Mở bài

Giới thiệu về cuốn sách em yêu thích: cuốn “Cảm ơn người lớn”.

2. Thân bài

* Nguồn gốc, xuất xứ:

Cuốn sách thứ 44 của tác giả Nguyễn Nhật Ánh

Xuất bản ngày 17 – 11 – 2023 bởi Nhà xuất bản trẻ.

Sách xuất bản tại Việt Nam và một vài quốc gia trên thế giới

* Hình thức của cuốn sách:

Sách hình chữ nhật: dài khoảng 20cm, rộng khoảng 13 cm

Bìa sách nổi bật với màu vàng chanh xinh xắn và đầy ấn tượng.

Dòng chữ trên cùng của bìa sách là tên tác giả “Nguyễn Nhật Ánh”.

Tiếp theo là lời đề từ đầy thú vị của cuốn sách với cỡ chữ nhỏ hơn

Tên sách được in với màu xanh lam dịu dàng “Cảm ơn người lớn”

Cuối bìa sách là ảnh một bì thư màu xám vẽ các nhân vật đầy ngộ nghĩnh và tên nhà xuất bản.

Bìa sau của sách cũng là màu vàng chanh nổi bật cùng tên truyện

Gốc phải phía cuối in giá thành của sách cùng tem chống giả.

* Nội dung bên trong sách

Sách có 264 trang

Cuốn sách được chia làm 19 chương

Bốn câu chuyện nhỏ được tập trung kể trong cuốn sách là câu chuyện tập bay, câu chuyện tập vẽ bản đồ, câu chuyện kinh doanh, truyện tranh giúp đỡ bạn và câu chuyện viết thư cho nhau.

Các mẩu chuyện liên kết với nhau

Nhân vật trong truyện: cu Mùi, Tí Sún, Hải Cò, Tủn,….

* Giá trị sách mang lại:

Đưa người đọc về với những chân trời của kí ức tuổi thơ

Cảm nhận sâu sắc hơn về thế giới của tình yêu thương, lòng nhân ái ,về những bao dung của tình bạn, tình nghĩa xóm làng, tình thân gia đình.

Bồi đắp, nuôi dưỡng thế giới tâm hồn con người

Là món quà tặng thân thương và đáng trân trọng

* Sách trên thị trường:

Nơi bán

Giá cả

Đánh giá của người đọc

* Cách giữ gìn và bảo quản sách

Không để sách bừa bãi, nhẹ nhàng, tránh quăn mép

Bọc bìa sách

Lau bụi

3. Kết bài

Cảm nghĩ, tình cảm của em dành cho cuốn sách.

Tôi là một đứa bé mồ côi…

Sinh ra trong một gia đình thiếu đi cái siết chặt từ bàn tay cha, và cái ôm ấm áp của mẹ. tôi đã luôn ước ao có được sự may mắn như bao đứa trẻ khác, nhưng cuộc sống chẳng rộng lòng cho ai tất cả, tôi đã thực sự sụp đổ khi đối diện trước những khổ đau ấy. Nhưng bất ngờ tìm thấy và đồng cảm với cuốn sách của một tác gia nổi tiếng Hector Malot, trong cuốn sách đã chứa đựng những khoảnh khắc đôi khi làm tôi đau đớn nhưng đôi khi lại thấy mình thật hạnh phúc.

Bão giông có thể đến và lấy đi hạnh phúc của bất cứ một ai, điều quan trọng ở đây là cách ta đón nhận những nghịch cảnh đó và đối mặt với chúng ra sao để làm cho những điều bình dị trở nên phi thường. Giống như cách mà cậu bé Remi trong tác phẩm “KHÔNG GIA ĐÌNH” mà tôi sắp sửa chia sẻ cho tất cả các bạn, cho những người đã và đang cần “động lực” để sống.

“Không gia đình” kể về cuộc phiêu bạt của Rêmi – một cậu bé không cha mẹ, không họ hàng thân thích, sống với mẹ nuôi ở một vùng quê hẻo lánh. Sau đó, em đi theo đoàn xiếc chó, khỉ của Vitali – một cụ già từng trải và đức độ, đi chu du và biểu diễn khắp mọi miền nước Pháp. Remi đã lớn lên trong sự gian khổ của cuộc hành trình. Nhiều lúc cả đoàn được ăn no mặc ấm, cũng có lúc phải đi trong trời đông giá rét, dưới cơn bão tuyết, nhịn ăn tưởng chết đến nơi. Rồi cụ Vitali mất, chỉ còn Rêmi và chú chó Capi trung thành. Từ đây em tự lập, không những lo cho mình, em còn cưu mang chú bé Matchia vào gánh hát rong. Họ đã trở thành đôi bạn thân, cùng nhau phiêu bạt, cùng chịu đựng gian khổ và cùng sẻ chia niềm sung sướng. Nhưng cuộc đời em đâu đã hết gian truân! Đã có lúc em bị kẹt dưới hầm mỏ lụt đến mười bốn ngày đêm. Có lúc khác, em vào nhầm nhà một tên vô lại vì tưởng đó là cha đẻ của mình. Rồi em lại phải vào tù vì bị mắc án oan…Nhưng dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, em vẫn noi theo nếp sống của cụ Vitali: giữ gìn nhân phẩm, ngay thẳng, gan dạ, tự trọng, thương người, ham lao động, không ngửa tay xin xỏ, không dối trá, nhớ ơn nghĩa, luôn làm người có ích. Cuối cùng, giống như những kết thúc có hậu trong các câu chuyện cổ tích, Rêmi tìm lại được gia đình thật sự của mình và sống hạnh phúc bên những người thân yêu.

Qua cuộc phiêu lưu của cậu bé Rêmi ta thấy được nhiều điều về số phận khổ đau của con người…Trước hết là Rêmi – nạn nhân của cuộc tranh giành quyền thừa kế tài sản. Em sống cuộc đời phiêu bạt của kẻ hát rong và phải chịu bao nhiêu gian khổ mới tìm lại được gia đình. Cuộc đời của cụ Vitali cũng là một bi kịch. Cụ vốn là một người đứng trên bậc cao nhất của nấc thang xã hội, nhưng cuối cùng lại phải làm nghề xiếc chó sống qua ngày. Sức lực của cụ bị bào mòn bởi sự khắc nghiệt của xã hội. Để rồi cụ chết, chết vì không tin vào lòng tốt của con người. Còn cả chú bé Matchia luôn bị đánh đập, hành hạ bởi ông chủ. Liệu còn số phận nào đáng buồn hơn thế? Nhưng cuốn sách này không chỉ có toàn đau khổ, nó cũng có nhiều điều thú vị để đọc, để cảm thấy vui vì những giá trị tốt đẹp của con người. Trước hết là tình cảm gia đình, tình thương của cụ Vitali dành cho Rêmi. Cụ đã dạy em nhiều điều hay lẽ phải để tồn tại trong thế giới khắc nghiệt. Bà Milligan và Arthur cũng yêu Rêmi. Họ chăm sóc, cưu mang khi em rơi vào tình trạng khó khăn nhất.Và cũng thật thiếu sót nếu không kể đến tình bạn thắm thiết giữa Rêmi và Matchia. Hai em sống đùm bọc nhau, chia sẻ đắng cay ngọt bùi,luôn sát cánh cùng nhau trong hoạn nạn. Câu chuyện này còn ca ngợi lao động, ca ngợi tinh thần tự lập tự tin của giới trẻ.

“Tiến lên! Thế giới mở rộng trước mắt tôi, tôi có thể dời chân xuống nam hay lên bắc, sang đông hay qua đoài tùy lòng.

Tôi chỉ là một đứa trẻ con, thế mà tôi đã làm chủ cuộc đời của tôi”

Hãy đắm chìm dòng cảm xúc của mình vào những trang sách để bản thân tự tin bước qua những thách thức mà cuộc sống đặt ra và để trái tim ta cảm nhận được thế giới này cần lắm những tình yêu thương như thế. Tuổi trẻ đừng ngại đương đầu với khó khăn bởi nếu không bị lạc đường ta sẽ khó biết mình vốn rất sợ hãi, nếu không bị dối gạt ta sẽ khó biết mình rất dễ tổn thương, nếu không bị bỏ rơi ta sẽ khó thấy được tính yếu đuối và dựa dẫm của mình. KHÔNG GIA ĐÌNH là một tác phẩm đầy tính nhân văn, đã mang đến cho độc giả những giá trị tinh thần tồn tại mãi theo năm tháng. Tác phẩm như ngọn đèn soi rọi cho biết bao tâm hồn thoát khỏi những bóng đêm của cuộc đời. Và cũng để những ai “có gia đình” suy ngẫm, làm sao sống cho tốt, xứng đáng với cái may mắn mà số phận ban cho.

Nếu như trong cuộc sống, sự hiến tặng đem tới niềm vui thì sự chia sớt lấy đi nỗi khổ. Ai rồi cũng sẽ có lúc rơi vào vũng lầy khổ đau hay tuyệt vọng. Thật không có gì quý giá bằng ngay trong lúc ấy có một cánh tay vững chãi cho ta tựa vào và truyền thêm sức mạnh giúp ta đủ can đảm để vượt qua. Bàn tay ấy có thể không đủ sức kéo ta khỏi vũng lầy bất hạnh nhưng nó đã làm nỗi khổ đau kia vơi đi ít nhiều. Đó là lý do mà ta luôn cần có nhau trong cuộc đời này.

Thật sự cảm ơn ông, Hector Malot!

Thơ – những âm vần và nhịp điệu dễ nhớ, giản dị mà lại sâu sắc. Tôi thích thơ, nó mang lại cho tôi cảm giác như đang lạc vào một khoảng không gian cùng với tác giả. Trong không gian ấy tôi cảm nhận được cả niềm vui, nỗi buồn và cả sự tiếc nuối mà tác giả mang đến trong tác phẩm. Một bài thơ có thể ngắn có thể dài, nhưng nó lại chứa đựng cả một tư tưởng lớn bao trùm cả một thời đại. Vì chính lẽ đó, tôi đã đến thư viện trường rất thường xuyên để tìm đến những bài thơ hay và tình cờ tôi đã thấy được cuốn sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Chân, trong đó có các tác giả mà tôi yêu thích cùng với các bài thơ của họ. Và như một lẽ tất nhiên, tôi đã mượn nó để thỏa mãn sự hiếu kỳ của mình.

Mở đầu của cuốn sách là một bài phê bình về “Một thời đại trong thi ca”. Tôi đã rất ngỡ ngàng vì có những thứ chưa tiếp xúc và chưa biết. Vì vậy, tôi đã định bỏ nó lại, nhưng Sapphire đã viết: “Tác giả gửi đi những thông điệp và việc của người đọc là giải mã những thông điệp đó một cách thấu đáo nhất có thể”. Quyết tâm của tôi lại nổi lên, tôi mở sách ra và ngồi đọc, tìm tòi tỉ mỉ những thông tin chưa biết. Quả thật, quyển sách đã đem đến cho tôi rất nhiều sự ngạc nhiên.

Tác giả đã viết “Thi nhân Việt Nam” một cách rất tỉ mỉ và chân thành. Đây là một tài liệu tốt để rèn luyện kĩ năng lí luận văn học. Cuốn sách sẽ đem lại cho bạn những kiến thức phong phú. Chẳng hạn như ông đã nói rằng không thể lấy độ dài để định giá một bài thơ; nêu cách nhận diện thơ mới sao cho đúng đắn, là phải “sánh bài hay với bài hay”, bởi lẽ “cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào”. Đồng thời ông cũng nói lên hai thời đại bao gồm trong cái ta chung và cái tôi riêng, tấn bi kịch của các nhà thơ mới, gợi ý cho họ lối thoát bằng tình yêu tiếng Việt.

Có một câu văn đặc biệt được trích dẫn ở nhiều tư liệu: “Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Câu văn này thật sự rất hay, nó như một sự tổng kết cho một thời đại rực rỡ huy hoàng của thơ ca. Và nó cũng được rất nhiều thế hệ sau nhớ đến để mang theo suốt chặng đường đời của mình. Hoài Thanh, Hoài Chân đã làm rung động cả một thế hệ theo sau như vậy.

“Thi nhân Việt Nam” cũng đã trải qua một thời thăng trầm. Khi nó mới được xuất bản, người ta phủ nhận nó vì nó dám khen cái thứ “thơ buồn”. Nhưng điều càng bất ngờ hơn chính là Hoài Thanh cũng không ít hơn một lần chối bỏ nó. Có lẽ vì nó không hợp thời hợp thế chăng? Một cuốn sách tổng kết lại cả một giai đoạn thơ ca khi mới xuất hiện bị người ta phủ định, thì dần dà về sau, khi nhìn lại những tác phẩm ấy, ta mới hiểu rõ, mới sâu sắc cảm nhận được sự đánh giá, phê bình của tác giả dành cho một quãng thời gian đổi mới. Cuốn sách dù đã được trả về đúng vị trí, giá trị của nó nhưng thật đáng tiếc, Hoài Thanh đã mất, và cũng đem theo một nỗi niềm u uẩn.

“Thi nhân Việt Nam” là một cuốn sách rất hay. Nó phù hợp với những người yêu thơ ca. Nó cũng phù hợp với những ai muốn tìm nguồn tư liệu để tích lũy kiến thức, nâng cao khả năng lí luận văn học. Cuốn sách không phải cứ đọc ngày một ngày hai là xong, mà trong từng câu chữ, ta phải ngẫm đi ngẫm lại rất nhiều lần để hiểu được ý nghĩa của nó. Tin tôi đi, thời gian của bạn sẽ không lãng phí nếu bạn dùng để đọc và ngẫm cuốn sách này. Đọc xong sách, tôi cảm nhận sâu sắc rằng Hoài Thanh không hổ danh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của Văn học Việt Nam hiện đại. “Thi nhân Việt Nam” chính là cuốn sách hay nhất viết về Thơ mới, và cũng là một trong những cuốn sách hay nhất của phê bình văn học Việt Nam.

Tôi rất yêu thích sách của bác Nguyễn Nhật Ánh, bởi thế mà luôn sưu tầm những cuốn sách được bác viết. Một vài cuốn sách hay phải kể đến như Cho tôi xin một vé đi tuổi, Kính vạn hoa, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh hay Cô gái đến từ hôm qua,…Nhưng có lẽ cuốn sách gây ấn tượng với tôi nhất là cuốn “Cảm ơn người lớn” của bác vừa mới xuất bản gần đây.

Cuốn sách “Cảm ơn người lớn” là đưa con tinh thần thứ 44 của Nguyễn Nhật Ánh. Vào ngày 17 – 11 – 2023, sách được phát hành với hai bản bìa cứng và bìa mềm trong sự đón đợi của hàng ngàn độc giả trên cả nước. Ngoài ra, sách còn được xuất bản ở các nước châu u, Đài Loan và Nhật Bản. Đây là cuốn sách thứ hút rất nhiều sự quan tâm đến từ những người hâm mộ văn phong của Nguyễn Nhật Ánh. Sách do Nhà xuất bản trẻ in ấn và phát hành với số lượng hàng trăm ngàn cuốn.

Cuốn sách không quá dày vì nó chỉ vỏn vẹn 264 trang. Sách hình chữ nhật với chiều dài khoảng 20 cm và chiều rộng là 13 cm. Bìa sách nổi bật với màu vàng chanh xinh xắn và đầy ấn tượng. Dòng chữ trên cùng của bìa sách là tên tác giả Nguyễn Nhật Ánh, tiếp theo là lời đề từ đầy thú vị của cuốn sách với cỡ chữ nhỏ hơn một chút: “Tôi viết cuốn sách sách này không dành cho trẻ em, tôi viết cho những ai từng là trẻ em”. Tên sách được in với màu xanh lam dịu dàng “Cảm ơn người lớn” sau lời đề từ của sách. Cuối bìa sách là ảnh một bì thư màu xám vẽ các nhân vật đầy ngộ nghĩnh trong truyện cùng tên của nhà xuất bản trẻ phát hành sách. Bìa sau của sách cũng là màu vàng chanh nổi bật cùng tên truyện, gốc phải phía cuối in giá thành của sách cùng tem chống hàng giả.

Lật từng trang sách, mân mê từng dòng chữ của cuốn sách ta như bị lôi cuốn vào từng câu chuyện đầy lý thú, hấp dẫn. Cuốn sách được chia làm 19 chương, mỗi chương là một mẩu chuyện, các mẩu chuyện được gắn kết với nhau mang đến nhiều cảm xúc khó tả. Xoay quanh các nhân vật như cu Mùi, Tí Sún, Hải Cò, Tủn,….một thế giới tuổi thơ được mở ra thôi thúc người đọc bước vào khám phá. Những câu chuyện đơn giản, tủn mủn đấy thôi nhưng với lối kể nhẹ nhàng, tự nhiên, tác giả đã mang người đọc đến với những chân trời kí ức của tuổi thơ, những điều vốn quen thuộc mà vô tình người ta đã bỏ lỡ hay quên lãng . Các chương của truyện đều được kể theo ngôi thứ nhất, từ điểm nhìn của nhân vật “tôi” khi đã lớn. Bốn câu chuyện nhỏ được tập trung kể trong cuốn sách là câu chuyện tập bay, câu chuyện tập vẽ bản đồ, câu chuyện kinh doanh, truyện tranh giúp đỡ bạn và câu chuyện viết thư cho nhau. Trong những câu chuyện ấy ngoài thế giới ngộ nghĩnh của tuổi thơ, ta được cảm nhận sâu sắc hơn về thế giới của tình yêu thương, lòng nhân ái ,về những bao dung của tình bạn, tình nghĩa xóm làng, tình thân gia đình. Cuốn sách bồi đắp thêm cho ta những cảm xúc trong trẻo nơi tâm hồn để biết yêu thương và trân trọng quá khứ, biết gìn giữ những giá trị của hiện tại và biết chia sẻ, cảm thông giữa cuộc đời.

Bước vào “Cảm ơn người lớn”, ta không chỉ cảm nhận được nội dung sâu sắc mà còn thấy được tài năng trong ngòi bút của một tác giả dành trọn niềm yêu cho tuổi thơ. Giọng văn nhẹ nhàng, hóm hỉnh, dịu dàng lại không kém phần chiêm nghiệm, triết lí. Giọng điệu linh hoạt với ngôn từ không quá trau chuốt nhưng lại dễ đi vào lòng người. Dòng hồi tưởng phong phú mà tự nhiên, cuốn hút. Có thể nói cuốn sách từ hình thức đến nội dung và nghệ thuật đều vô cùng dễ thương và ý nghĩa.

Trên thị trường hiện nay, giá thành sách không quá cao. Cuốn Cảm ơn người lớn bìa mềm giá khoảng 75. 000 đồng, cuốn bìa cứng có giá khoảng 175.000đồng. Sách được bày bán tại các hiệu sách trên cả nước, hoặc cũng có thể chọn mua trên các trang mạng bán sách như Tiki, Shopee hay Fahasa,….Nếu kinh phí chưa cho phép, các bạn có thể đọc sách online trên các trang eBook cũng là một lựa chọn hợp lý.

Ngay từ lần đầu đọc cuốn sách “Cảm ơn người lớn” tôi đã vô cùng thích thú. Thầm cảm ơn cuộc đời đã cho em thưởng thức một cuốn sách trọn vẹn và ý nghĩa đến như vậy. Đọc cuốn sách em học hỏi thêm được nhiều điều về lẽ sống, về sự lựa chọn và niềm tin trong cuộc đời. Mai này, trên hành trình của cuộc sống với những mỏi mệt, lắng lo, em vẫn sẽ tìm về với sự bình yên và thành thản trong những dòng văn yêu thương của “Cảm ơn người lớn”.

Cuộc sống của chúng ta sẽ kéo dài bao lâu? Không ai trong chúng ta có thể biết được. Chúng ta chẳng biết điều gì sẽ đến vào sáng mai khi chúng ta thức dậy. Vậy mà tôi, bạn, chúng ta liệu chúng ta đã sống hết mình trong cuộc sống này hay chưa? Hay chúng ta chỉ duy trì một cuộc sống đơn điệu, chẳng hề thấy hạnh phúc khi mỗi ngày được tỉnh dậy một cách khỏe mạnh? Tôi đã từng như thế, từng trải qua những tháng ngày đơn điệu, vô hồn của tuổi trẻ, cho đến khi bắt gặp hình ảnh Saitou Aya trong tác phẩm nhật ký của cô – “Một lít nước mắt”. Cuốn nhật ký ấy đã khiến tôi rơi nước mắt, khiến tôi chợt nhận ra tôi đã thờ ơ với cuộc sống của mình đến mức nào!

Có lẽ nhiều bạn trong giới trẻ chúng ta hiện nay không hào hứng với những cuốn sách, các bạn không quan tâm, không muốn mất thời gian của mình vào chúng mà thay vào đó, các bạn sử dụng các thiết bị điện tử thông minh như Smartphone, Ipad, … Theo thống kê của thế giới, Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ đọc sách ít nhất thế giới, chỉ khoảng 0,7 cuốn/ năm so với Nhật Bản là 55 cuốn/ năm hay quốc gia Do Thái là 88 cuốn/ năm. Có lẽ rằng sách không cuốn hút các bạn bằng máy tính, smartphone, tivi hay ipad, … nhưng giá trị mà sách mang lại cho bạn vô cùng to lớn. Đó là nguồn tư duy khổng lồ, tri thức vô hạn, những cảm xúc chân thành. Sách chưa cuốn hút các bạn có lẽ bởi vì các bạn chưa tìm thấy cuốn sách của chính mình. Với tôi, cuốn sách đã thay đổi nhận thức của tôi với cuộc đời, cho tôi thêm tri thức và niềm tin, biến đổi cả cuộc sống của tôi, đó chính là “Một lít nước mắt”.

“Một lít nước mắt” là cuốn nhật ký của một cô bé người Nhật, mười bảy tuổi, tên là Kitou Aya. Cuộc sống của cô bé vốn vẫn bình thường, êm đềm trôi qua cho đến một ngày cô bé đột nhiên bị ngã quỵ ở trên đường đi học về và cha mẹ cô đã quyết định đưa cô vào bệnh viện. Các bác sĩ đã chẩn đoán cô bé bị mắc căn bệnh nan y “thoái hóa dây thần kinh tiểu não”. Căn bệnh ấy khiến cho người mắc sẽ dần trở nên yếu đuối, không thể khống chế được cơ thể của mình nữa, không thể tiếp tục các hoạt động như một người bình thường được nữa. Aya đã bị cầm tù trong chính cơ thể của mình, thân thể cứ ngày một yếu đi, từ một học sinh năng động, khỏe mạnh, Aya trở nên dần yếu hơn, từ việc phải từ bỏ các môn học thể thao yêu thích như chạy bộ, cầu lông, … leo cầu thang cũng trở thành một nỗi mệt nhọc lớn. Thế nhưng, vượt lên trên tất cả, Aya đã cố gắng từng ngày từng ngày, cố gắng học tập, cố gắng giao tiếp và cả động viên mọi người nữa. Aya luôn muốn trở thành một người có ích, không làm phiền tới ai dù đang mắc bệnh nặng. Từ việc leo cầu thang lên lớp, tới việc đi vệ sinh, Aya đều muốn tự làm, cô luôn thấy mình thật có lỗi khi bắt mọi người phải chăm sóc mình. “Mình thật có lỗi quá!” Aya đã nói vậy khi một người bạn nhẫn nại giúp cô leo từng bậc cầu thang.

Từng trang nhật ký của Aya là minh chứng cho tinh thần chiến đấu với bệnh tật tới cùng, luôn lạc quan, vui vẻ, mạnh mẽ và không bao giờ được bỏ cuộc. Gia đình của Kitou Aya đã rất đau khổ, nhưng chính Aya lại là người vực lại tinh thần cho cả nhà. Có lẽ ai đọc qua cũng không khỏi ám ảnh hình ảnh của Aya khi cô phải bò trên sàn nhà bằng cả chân và tay để di chuyển, mẹ của Aya ở phía sau đã cùng bò với con gái mình. Và khi cô bé bật khóc vì quá đau đớn, người mẹ ấy cũng đã bật khóc cùng người con của mình. Thế nhưng chính Aya lại động viên mẹ mình rằng: “Mẹ ơi, mẹ đừng khóc, con sẽ không đau nữa mà!” Tuy không thể thực hiện được ước mơ trở thành một giáo viên như mong ước, nhưng những trang nhật ký thấm đẫm nước mắt của Aya đã truyền cảm hứng cho hàng triệu độc giả trên khắp thế giới. Và câu chuyện về một Aya mạnh mẽ, luôn yêu đời, nghị lực sống của cô có lẽ luôn sống mãi trong lòng mỗi người khi được đọc từng trang nhật ký ấy.

Nếu ai đó đang dần mất đi niềm tin vào cuộc sống, cảm thấy cuộc đời của mình thật không trọn vẹn thì hãy thử một lần lật giở từng trang nhật ký “Một lít nước mắt” của Aya Kitou. Tôi không biết bạn sẽ nhận được gì từ cuốn sách, nó có chạm đến được trái tim của bạn hay không, nhưng chắc chắn tinh thần, ý chí mạnh mẽ của Aya, niềm mong mỏi được sống, được vui chơi, mơ ước của cô bé mười bảy tuổi ấy sẽ khiến bạn phải khâm phục! Biết đâu đấy, sau khi đọc xong cuốn sách này, khi tỉnh dậy vào một buổi sáng, bạn chợt nhận ra rằng: Cuộc đời mình thật tươi đẹp biết bao!

Có những câu chuyện đọc rồi sẽ quên. Nhưng cũng không ít quyển sách đã để lại ấn tượng khó phai, là tiền đề, mục đích, lí tưởng và là bệ phóng hướng con người tới những chân trời tương lai tươi mới. “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh là một quyển sách như vậy.

Tôi tin với bất cứ ai từng đọc tác phẩm này đều không thể quên được thế giới mông lung và đầy mơ mộng trong con mắt của cậu bé tám tuổi tinh nghịch. Nhưng thế giới ấy chẳng hề xa hoa, bí ẩn hay mĩ miều như trong những câu chuyện cổ tích gắn liền với tuổi thơ của mỗi đứa trẻ mà nó chính là góc khuất thầm kín trong tâm hồn, là những kí ức chân thật nhất, là tấm gương rọi vào quá khứ phản chiếu lại biết bao kỉ niệm của một thời thơ ấu đã qua.

Nguyễn Nhật Ánh đã tặng bạn đọc một tấm vé trên chuyến tàu đặc biệt để mỗi người chúng ta có thể lật lại trang sách thời gian nhuốm màu dĩ vãng này trở về dòng sông trong trẻo của tuổi thơ và gột rửa hết những bụi bặm, những bế tắc, những phù phiếm ở thế giới người lớn. Xin đừng vội nghĩ rằng đây chỉ là tác phẩm sáo rỗng, vô vị dành cho bọn trẻ con mà đánh mất đi cơ hội tìm về chính bản thân mình, tìm về chính bản chất đơn thuần nhất của cuộc sống, cũng như tác giả đã từng khẳng định “Tôi viết cuốn sách này không dành cho trẻ em. Tôi viết cho những ai từng là trẻ em”. Xuyên suốt quyển sách là câu chuyện xoay quanh nhóm bạn bốn người với những “ông cụ, bà cụ non” khoác trên mình hình hài trẻ thơ gồm: nhân vật tôi (cu Mùi), con Tí sún, thằng Hải cò và Tủn – hoa khôi của xóm. Qua hành trình khôn lớn của những “bé con” đó, tôi như được chứng kiến một thước phim quay chậm lúc thì mờ ảo, nhiễu loạn nhưng có lúc hình ảnh về ngày tháng tuổi thơ lại hiện lên rõ nét, sinh động ngỡ như mới chỉ ngày hôm qua. Những hồi ức ấy nào có phải toàn mang ánh hào quang rực rỡ, nào có phải là bản hùng ca với đầy chiến tích đáng tự hào mà với cu Mùi, nó đơn thuần chỉ là nỗi buồn không rõ nguồn gốc về cuộc sống cũ kĩ theo vòng tuần hoàn tẻ nhạt “Vẫn ánh mặt trời ấy chiếu rọi mỗi ngày. Vẫn bức màn đen đó buông xuống mỗi đêm. Trên mái nhà và trên các cành lá sau vườn, gió vẫn than thở giọng của gió. Chim vẫn hót giọng của chim. Dế ri ri giọng dế, gà quang quác giọng gà”. Và hơn hết sự nghịch ngợm, ngổ ngáo của cậu nhóc lên tám còn thể hiện rất chân thật qua những năm mài đũng quần trên ghế nhà trường với niềm vui thú đến lớp để tán gẫu, cãi cọ, cấu véo, ngủ gật hay chọn vị trí tối tăm cho ít bị kêu lên bảng trả bài. Ngay ở chương đầu tiên của quyển sách, chắc hẳn người đọc đã thoáng có chút giật mình, lắng đọng xen lẫn ngượng ngùng khi bắt gặp chính hình bóng của mình trong thời áo trắng qua nhân vật trữ tình. Dù bạn có dám thừa nhận hay không thì ở cái tuổi ham chơi, hiếu động ấy thì việc học như một nghĩa vụ giam cầm ta trước bao nhiêu trò chơi hấp dẫn, trước bao nhiêu khung trời mới mẻ và giờ ra chơi chính là thời gian thần tiên để chú chim non sổ lồng tìm chút niềm vui ngắn ngủi. Mạch liên tưởng độc đáo đó như thể là một chiếc chìa khóa vạn năng chạm tới mọi góc khuất riêng tư nhất trong miền kí ức của tôi, kí ức về cô học sinh lớp ba luôn thơ thẩn, mơ mộng về những bài toán chia dài ngoằng thành biết bao tòa cao ốc đồ sộ mà chính tôi là vị kiến trúc sư đại tài thiết kế nên hay những dòng chữ gà bới đang múa lượn trong quyển vở tập viết với tôi lại là món mì xoắn ốc mới mẻ, ngon lành dưới bàn tay khéo léo của đầu bếp cừ khôi… Có lẽ tôi và rất nhiều “bạn nhỏ” khác cũng đã hoặc đang đánh mất rất nhiều năm học tập quý giá, đánh mất rất nhiều kiến thức bổ ích nhưng tôi sẽ chẳng chối bỏ tuổi thơ đó, chẳng chối bỏ lỗi lầm đó vì con người không ai có thể luôn hoàn hảo, nếu ta không đủ can đảm nhìn nhận quá khứ, nhìn nhận những thiếu sót của bản thân thì ta chỉ đang tự lừa dối chính mình bởi vỏ bọc hoàn thiện giả tạo.

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh cũng đã nêu triết lý “Để sống tốt hơn đôi khi chúng ta phải học làm trẻ con trước khi học làm người lớn”, thật vậy qua những lời kể chân thật về tuổi thơ đã qua, tác giả đã nhẹ nhàng gởi gắm những tư tưởng mang tính giáo dục sâu lắng, nhẹ nhàng gõ tiếng chuông vang vọng vào tiềm thức con người giúp ta khai phá nên những chân lý mới lạ. Văn phong của tác giả nửa như giễu cợt, bông đùa, nửa lại mang hơi hướng triết lý sâu sắc truyền đạt tới đông đảo bạn đọc và đôi khi là các bậc cha mẹ nói riêng. Chắc ta không thể quên lời than phiền của cu Mùi “Người lớn thường cho phép mình làm tất cả những gì mình thích, kể cả những ý thích rất vớ vẩn và cấm trẻ con làm tất cả những gì họ không thích, và sự cấm cản của họ nhiều khi cũng vớ vẩn nốt”, đôi khi vì quá yêu thương con mà cha mẹ vô tình thái quá sự phán xét và áp đặt trẻ bởi họ luôn muốn con mình nhận lấy mọi điều tốt đẹp và tránh xa những cạm bẫy. Nhưng liệu có quá bất công khi chúng ta tước đi quyền được vấp ngã của con trẻ và ép chúng vào khuôn mẫu hoàn hảo chỉ chứa niềm vui và sự sung túc? Nghe có vẻ nghịch lý nhưng nó cũng giống như một món ăn tuy ngon đến mấy nhưng ăn hoài sẽ thành chán ngán, tầm thường ví như bước đường ta đi nếu quá bằng phẳng và trải đầy hoa hồng thì hạnh phúc cũng trở nên nhàm chán, vô vị vì đời người chỉ được một lần sống, ta chỉ một lần được trải nghiệm hết những hỉ, nộ, ái, ố, đau thương. Có đứa bé nào tập đi mà chưa từng vấp ngã, đứa bé chưa từng nói ngọng sẽ không thể phát âm tròn vành, rõ chữ vậy nên qua tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh còn muốn gửi thông điệp đến “những người lớn” hãy để con cái được phát triển tự nhiên nhất, ta chỉ nên khuyên răn chứ đừng ngăn cấm chúng khám phá thế giới dù biết trước đó là ngõ cụt bởi ta cũng đã từng được trải nghiệm nên hãy để trẻ con vươn tới tương lai bằng chính đôi chân nhỏ bé của bản thân.

Không chỉ vậy, trong “cho tôi một vé đi tuổi thơ” làm mỗi người lớn phải thốt lên khâm phục trước sự sáng tạo, mộng mơ của bọn trẻ mà cũng chính là của ta ngày xưa. Đó là mong ước muốn “đặt tên cho thế giới”, dùng trí tưởng tượng biến cái gối thành búp bê, biến cái nón thành cuốn tập, con chó thành bàn ủi, chiếc quạt máy thành cái tivi và thằng Mùi là Thầy hiệu trưởng…Chúng không hề lố bịch, quậy phá mà bản chất của trò chơi “kì lạ” đó là ước muốn thầm kín được thay đổi thế giới xung quanh trở nên mới mẻ, tinh khôi như thể được sinh ra một lần nữa, để chúng khỏi chán ngán với việc ăn, ngủ, đến lớp và học bài. Nhưng có lẽ trong tác phẩm người đọc thích thú nhất vẫn là cái tình cảm ngô nghê, hồn nhiên của cu Mùi với cô bạn Tủn mà thấp thoáng hiện lên lời bộc bạch rất ngây thơ. “Sau này tôi biết đó là cảm giác ghen tuông, tất nhiên là ghen tuông theo kiểu trẻ con, còn lúc đó tôi chỉ cảm thấy khó chịu”. Đó là tình yêu con nít mà có lẽ là trong sáng, thiêng liêng hơn cả vì nó không hề bị vẩn đục bởi vòng xoáy của tiền tài, danh lợi và không bị chi phối, bão hòa cảm xúc khi người lớn có lập trình, lên kế hoạch để ép thứ cảm xúc vô hình vào khuôn khổ chặt chẽ.

Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ – một tác phẩm mở ra thiên đường trong trẻo, tràn ngập hoa nắng và tiếng cười giòn giã của trẻ thơ. Nguyễn Nhật Ánh đã kết nối những trang hồi ức vô tình bị lãng quên hay thậm chí là đánh mất giữa dòng đời xô bồ, tấp nập này. Ông đã mang bạn đọc từ khắp mọi nơi, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp lên chung một chuyến tàu về lại sân ga tuổi thơ để từ đó bắt đầu hành trình tìm lại chính mình, chính bản chất “nhân chi sơ tính bản thiện”. Đọc tác phẩm mà mỗi hình ảnh, mỗi hành động, lời nói của bốn nhân vật đều để lại trong tôi một sự khắc khoải, ám ảnh sâu sắc, ám ảnh về dòng chảy hờ hững của thời gian đã mang đi mất của tôi rất nhiều thứ, mang đi mất những tháng ngày rong ruổi dạo chơi khắp xóm, mang đi mất những người bạn thân thiết đã từng là tất cả với tôi và hơn hết là mang đi mất chính hình bóng tuổi thơ thậm chí là biết bao hoài bão cháy bỏng mà tôi đã từng khát khao thực hiện cũng bị lớp bụi thời gian xóa mờ, vùi lấp.

Sách là sản phẩm của xã hội văn minh và hiện đại. Mỗi quyển sách chứa đựng một kho tàng kiến thức vô cùng lớn và chứa nhiều nội dung phong phú khác nhau. Nó cung cấp cho xã hội loài người chúng ta sự mới mẻ trong khám phá thế giới cũng như biết bao điều lí thú trong cuộc sống.

Nhưng điều quan trọng hơn chính là tìm được cuốn sách bổ ích và cần thiết cho nhu cầu của bạn. Và một trong những cuốn sách tôi muốn giới thiệu đến ở đây đó là cuốn sách “Tôi tài giỏi, Bạn cũng thế” của tác giả người Singapore Adam Khoo và được dịch sang tiếng Việt bởi Trần Đăng Khoa và Uông Xuân Vy. Cuốn sách “Tôi tài giỏi, Bạn cũng thế” được đúc kết từ rất nhiều năm kinh nghiệm của Adam Khoo. Adam muốn chia sẻ những phương pháp và kỹ năng mà anh đã áp dụng từ năm 13 tuổi, trên con đường đi đến thành công trong học vấn và sự nghiệp. Từ một đứa trẻ được coi là “vô dụng”, “bất tài”, “học kém” Adam đã vươn lên và trở thành một triệu phú trẻ và giàu có nhất Singapore. Nó cũng giống như tên cuốn sách, đó là những bí quyết để dẫn đến thành công mà anh chia sẻ qua từng trang sách, từng chương cũng như từng đề mục. Đầu tiên tác giả đã đưa ra một loạt những biểu hiện trước khi anh đến với thành công. Nó có thể được tóm gọn bằng những từ như “ngu si” “đần độn” (chương I). Nhưng lần lượt qua những trang sách sau bạn phải thật sự ngạc nhiên khi tác giả đã tự tạo ra cho mình một bước ngoặt lớn để thay đổi cuộc đời, số phận. Bằng những bước đi cơ bản từ dễ đến khó, Adam đã thực sự bắt tay vào hành động với mục tiêu phía trước. Lần lượt qua những trang sách này các bạn sẽ nhận biết được chân dung của một triệu phú trẻ đã phải vượt qua thử thách kiên trì như thế nào để có được ngày hôm nay. Càng đọc tôi càng thấy nó thực sự lôi cuốn, hấp dẫn, muốn đọc thật nhanh để tìm ra những bí quyết mà Adam đúc kết được. Bởi vì sự tò mò và thích thú đã khích lệ tôi lật sang những trang kế tiếp để tìm cái tôi cần. Phải công nhận Adam rất biết thu hút người đọc không chỉ bằng hình thức mà còn về cả nội dung. Bởi khi lật sang trang kế tiếp tôi thật sự lấy làm vui khi trau dồi kinh nghiệm của Adam là một thứ gì đó cất giấu cho riêng mình để chuẩn bị hành trang chiến đấu với khó khăn ở tương lai. Tôi xin trích dẫn một vài đề mục đang và đã được ứng dụng rộng rãi cho tất cả mọi người:

– Phương pháp học để nắm bắt thông tin (chương 5).

– Sơ đồ tư duy công cụ ghi nhớ tối ưu (chương 7).

– Trí nhớ siêu đẳng cho từ và số (chương 8,9).

Bạn thấy đấy những phương pháp trên đã giúp bạn cải thiện phần nào khó khăn trong học tập cũng như trong công việc. Chúng ta có thể lấy một ví dụ điển hình như sơ đồ tư duy (mind map) đã được ứng dụng mạnh mẽ ở trường học cũng như các lĩnh vực khác đã đạt được nhiều thành công. Có thể nói phương pháp không thì chưa đủ, để có nghị lực thực hiện các phương pháp trên quan trọng nhất đó là động lực để học tập. Đó cũng là một trong những phần quan trọng nhất của sách được thể hiện ở phần III “Động lực cá nhân của bạn”. Từ chương 12 đến chương 16 Adam đã trình bày những bí quyết để vượt qua lười biếng, tập trung phát triển bản thân đó là điều quan trọng nhất đối với mỗi người hay tạo quyết tâm mạnh mẽ ở chương 16. Đối với phần cuối bạn sẽ tìm được phương pháp thi cử tốt nhất thông qua chương 17 “Tăng tốc về đích”. Chiến thắng và vinh quang ở chương 18. Theo tôi nghĩ bạn đọc đến phần cuối như thế này thì bước thành công đầu tiên của bạn đã hoàn thành. Để kiên trì đọc hết một cuốn sách không hình mà lại khô khan không cảm xúc thì rất khó đối với những người không biết kiên trì, nhẫn nại để đến đích.

Tôi đã đọc hết và đã đúc kết được những kinh nghiệm riêng cho mình. Mời các bạn cùng tôi tham khảo qua những bí quyết này!

Để thay đổi cuộc sống, tôi phải thay đổi. Bạn làm chủ cuộc sống của bạn. Bạn phải thay đổi sự tồi tệ ở thực tại để thành công chứ không phải nhìn về phía bóng tối của sự tồi tệ.

Không có thất bại, chỉ có kinh nghiệm. Bạn chưa thành công , chẳng sao vì bạn sẽ rút ra kinh nghiệm là chính nguyên liệu cho sự thành công của bạn.

Nếu mọi người làm được, tôi cũng làm được, họ cũng như bạn, một bộ não, một cơ thể con người. Họ làm được thì sao bạn lại không?

Từ những điều nói trên tôi có thể khẳng định rằng cho dù bạn là ai, đang ở đâu, đang học trường nào, đang hướng đến bất cứ mục tiêu gì trong học tập và trong cuộc sống, tôi xin chắc chắn với bạn một điều rằng, bạn sẽ tìm được câu trả lời trong quyển sách “Tôi tài giỏi, Bạn cũng thế” chứa đựng những bí quyết để Adam Khoo lập nên kì tích.

Sách đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất là “Đắc Nhân Tâm” của tác giả Dale Carnegie.

Sách vở đó là tài sản tinh thần của con người, chính vì vậy, mỗi tác giả đều cố gắng chắt lọc những cái cần thiết và quan trọng nhất mà mình tích lũy được để viết lên những cuốn sách để đời. Ngày nay xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu và thi hiểu đọc sách của người đọc cũng càng ngày càng giảm dần, chính vì thế sách vở ngày càng mất đi giá trị của nó. Công nghệ ngày càng hiện đại con người dường như quên đi nhiều thứ có giá trị của cuộc sống, họ luôn tích lũy cho mình vốn tri thức từ cuộc sống, nhưng dường như quên đi nhiều thứ, đang ra cần trân trọng và giữ gìn nó mỗi ngày. Chúng ta cần phải biết sống một cách có ý nghĩa, có như vậy khi ngoảnh lại, chúng ta mới không cảm thấy luyến tiếc vì những gì đã xảy ra với chính mình.

“Đắc Nhân Tâm” là cuốn sách vô cùng hữu ích. Nó không chỉ làm dạy cho con người hiểu được nghệ thuật thuyết phục con người, biết cách sống đúng đắn hơn cho cuộc sống này, mà còn cung cấp cho ta vốn tri thức lớn. Tác giả là người hiểu rộng, tài cao, chính vì thế, những câu từ mà ông viết lên cũng luôn giàu giá trị biểu tượng, con người cần phải học hỏi, trân trọng và giữ gìn những tài sản vô giá này, đó là tài sản quý báu mà chúng ta nên học hỏi, giữ gìn và phát huy được giá trị tuyệt vời của nó.

Cuốn sách này không chỉ giúp con người phát triển được nhiều hơn nữa những kỹ năng, mà còn giúp phát triển tư duy đang bị khiếm khuyết của chính mình. Một cách tư duy đúng đắn có thể giúp con người rất nhiều điều trong cuộc sống này.

Sở thích và niềm mơ ước sẽ luôn đi cạnh chúng ta, nó thúc dục ý chí và bản lĩnh của chúng ta mỗi ngày, chính vì vậy, luôn luôn học hỏi, cố gắng rèn luyện bản thân là điều rất cần thiết và nên thực hiện. Chỉ có việc học, đọc và tư duy mới giúp chúng ta hiểu được nhiều điều từ cuộc sống này, mỗi chúng ta phải ý thức được trách nhiệm cũng như giá trị của bản thân, để từ đó làm được những điều có giá trị và ý nghĩa nhất mà cuộc sống của chúng ta đang cần.

Mỗi ngày chúng ta đều sống, rèn luyện và đang cố gắng để rèn luyện bản thân mình, điều đó giúp chúng ta rất nhiều trong cuộc sống. Một cuốn sách hay giúp chúng ta rất nhiều điều trong cuộc sống. Nó dạy chúng ta cách làm người, dạy chúng ta lớn lên trong xã hội có nhiều điều khó khăn, cũng như mọi điều vất vả mà cuộc sống này đang đặt ra cho mỗi người.

Luôn luôn rèn luyện bản thân mỗi ngày, để từ đó chúng ta hiểu được nhiều điều có giá trị từ cuộc sống này. Luôn học tập, rèn luyện và phát triển bản thân, để chúng ta có thể học hỏi và trở thành một công dân có ích cho xã hội này. Mỗi ngày phải năng học hỏi, phát triển mọi kĩ năng sống, để từ đó nâng cao được mọi kĩ năng cũng như kinh nghiệm của mình.

Như vậy, “Đắc Nhân Tâm” thực sự là một cuốn sách giàu giá trị. Nó đã dạy cho con người nhiều bài học ý nghĩa sâu sắc.

Có ai mà chưa từng một lần trải qua vị đắng của cuộc sống, lâm vào những tình huống, hoàn cảnh tuyệt vọng, bế tắc và không biết chọn lối đi nào. Và dường như mọi dự định, mọi ước mơ đều sụp đổ, không còn điểm tựa. Cảm thấy hụt hẫng và không muốn làm gì, chỉ có ý nghĩ chấm dứt buông xuôi trôi đi nỗi buồn. Những lúc như vậy hẳn ai cũng cần một động lực để đứng lên và tôi cũng vậy. Tôi đã từng tìm cho mình những cuốn sách về cuộc sống nhằm khắc phục những hạn chế và đưa ra cho mình những bài học kinh nghiệm, cho đến khi tôi tìm thấy cuốn sách “Hạt giống tâm hồn’’. Cuốn sách đã làm không ít người thức tỉnh về bài học cuộc sống, đem lại sự đồng cảm cho nhiều người.

“Hạt giống tâm hồn” một cuốn sách nổi tiếng về các câu chuyện nghệ thuật sống và giá trị đạo đức được công ty First News Trí Việt góp nhặt, sưu tầm. Bộ sách là nguồn cảm hứng và sự thúc đẩy con người vươn lên trong mọi nghịch cảnh, chiến thắng chính mình và sống xứng đáng với phẩm chất của mình.

Cuốn “Hạt giống tâm hồn” có một câu nói của Oprah Winfrey rằng: “Cuộc sống luôn chứa đựng những nỗi đau mà ta không thể nào đoán trước được. Thế nhưng hãy tin rằng mọi chuyện buồn điều lướt qua chúng ta rất nhanh như một đoạn phim ngắn”. Cuốn sách đem lại nhiều cảm xúc cho người đọc, mỗi người sẽ có những cảm nhận riêng về cuốn sách. Riêng tôi, sự kiên cường ý chí vươn lên chống lại chông gai của từng nhân vật trong cuốn sách là cảm nhận tôi từ họ.

“Hạt giống tâm hồn” là cuốn sách viết lên những bài học quý giá dành tặng những người đang phải đối đầu với những thử thách mà cuộc sống đem lại, là người bạn tâm sự sát cánh bên ta khi nỗi buồn ập đến, cũng là cuốn sách lấy đi những giọt nước mắt đầy cảm xúc trong trái tim người đọc. Có những người bất hạnh và đau khổ hơn ta, nhưng vì họ tin và họ đang thấy những điều kì diệu và tiếp tục cố gắng.

Cuốn sách như một trang mở đầu biến chúng ta từ con số không và biết đứng lên dần mỗi khi vấp ngã. Ngoài cảm nhận về cuộc sống, nó còn cho ta biết thêm cho mình những bài học quý báu. Trước đó tôi đã đặt ra hàng trăm lý do, hàng trăm câu hỏi làm sao để dẫn đến thành công và làm thế nào để chọn được con đường tương lai tốt. Hầu hết những lý do đó không có câu trả lời và không có cách giải quyết. Nhưng đến giờ, tôi đã tìm thấy câu trả lời trong “Hạt giống tâm hồn” chỉ bằng hai chữ “nỗ lực”.

“Hạt giống tâm hồn” như một phép màu kì diệu mách chúng ta khi gặp phải thử thách, những khó khăn tưởng chừng như không vượt qua nhưng chỉ cần có ý chí và niềm tin bạn sẽ vượt qua những khó khăn đó và chạm đến đích thành công. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, nếu chúng ta mang một sức mạnh ý chí, gạt đi những giọt nước mắt đau khổ để đứng dậy, sẵn sàng đối mặt với những khó khăn đó thì ta sẽ nhận ra: “Đằng sau những giọt nước mắt đó vẫn còn một niềm vui và hạnh phúc và trái lại nếu dễ dàng vứt kiếm buông xuôi thì ta chỉ nhận được thất bại song song với những nỗi buồn ám mãi không buông”.

Có những lúc tôi thất bại và muốn lùi lại nhưng rồi tôi đã cố gắng bước lên vì “Hạt giống tâm hồn” mang cho tôi sức mạnh vi diệu ấy. “Hạt giống tâm hồn” cuốn sách mang lại niềm tin cho mọi người và đem lại phần nào thành công cho ta, giúp ta thấy được giá trị của cuộc sống.

Tôi đã từng nghe nói ở đâu rằng “sách là thế giới”. Quả thật đúng như vậy, sách là thế giới thu nhỏ, cho phép ta trải nghiệm, cảm nhận rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Qua những câu chuyện đầy xúc động mỗi người lại tự rút ra những bài học cho riêng mình. Đối với tôi cuốn sách gối đầu giường, cuốn sách tôi yêu thích nhất chính là “Cây chuối non đi giày xanh” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.

Câu chuyện được bắt đầu thật tự nhiên hợp lý. Nhân vật Đăng cũng là nhân vật chính trong tác phẩm nhận được lời đề nghị của người bạn: “Mày viết cho tao một bài về những kỉ niệm lúc mày còn ở đây… Mày viết thật thơ mộng vào. Như viết tiểu thuyết càng tốt”. Nhận lời đề nghị của người bạn, Đăng đã bắt tay vào viết, đó cũng là lúc biết bao kỉ niệm xưa cũ, trong trẻo, hồn nhiên của tuổi thơ ùa về: tình bạn, tình yêu, tình cảm thầy trò. Những kỉ niệm ấy thật đẹp đẽ, mơ mộng và đáng trân trọng biết bao.

Trong cuốn truyện điều tôi ấn tượng nhất là hành trình tuổi thơ cũng là hành trình phát triển từ tình bạn thành tình yêu của Đăng và nhỏ Thắm. Những đứa trẻ con ngây thơ, hồn nhiên bên nhau trong suốt thuở thiếu thời: bị chết đuối hụt, chúng cùng đi học bơi, bảo vệ nhau trước những kẻ xấu, cùng nhau đi học, cùng nhau cười đùa,… và chúng ngượng ngùng, xấu hổ khi nghe thấy những lời chòng ghẹo, trêu đùa từ người khác.

Nhưng trên hết đó là sự quan tâm, giúp đỡ nhau chân thành, tha thiết. Tôi đã vô cùng ngỡ ngàng, ngạc nhiên với hành động hồn nhiên mà cũng đầy chân thành của chú tiểu Khôi, Phan… khi Thắm buộc phải lấy người mà bố mẹ mai mối. Đó còn là sự yêu thương vô bờ của mẹ Thắm dành cho đứa con của mình. Chẳng phải ai khác mà chính là bà đã dán tờ giấy ấy trước nhà với nội dung phản đối hôn nhân lạc hậu. Bà mẹ ấy thật bao dung và vĩ đại biết bao. Bà biết rằng nếu bị phát hiện chắc chắn nhỏ Thắm sẽ bị ăn đòn, bởi vậy bà tình nguyện làm việc đó để đỡ đòn roi thay cho con.

Tác phẩm còn thể hiện tình người, tình làng nghĩa xóm đầm ấm, thân thiết. Ông hớt tóc chẳng khác nào ông Ba Bị mà bố mẹ vẫn dọa mỗi lần tôi hư. Ông hay chòng ghẹo những đứa bé trong làng, miệng ông nhai trầu đỏ lòm làm tất cả những đứa trẻ trong làng phải khiếp sợ. Nhưng khi thấy Đăng và Thắm bị ngã nước, sắp chết đuối ông đã vội vàng xuống cứu. Ẩn sau con người gàn dở ấy là cả một tấm lòng nhân hậu và lương thiện biết bao.

Và còn rất nhiều câu chuyện nhỏ nhặt, vô cùng đời thường trong truyện khiến người ta đọc một lần rồi chẳng thể nào quên được. Có lẽ khi đọc cuốn sách này những đứa trẻ nông thôn sẽ như được sống lại những kí ức ngây thơ, hồn nhiên của mình. Chỉ là những câu chuyện vặt, câu chuyện nhỏ nhưng đầy chất nhân văn và thấm đẫm tình người.

Advertisement

Truyện được viết bằng giọng văn nhẹ nhàng, sâu lắng, thấm đẫm chất trữ tình. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, đậm chất Nam Bộ khiến người đọc cảm nhận được thân thương, gần gũi. Không chỉ vậy, Nguyễn Nhật Ánh còn tạo dựng tình huống đặc sắc, những chi tiết bất ngờ làm câu chuyện trở nên hấp dẫn, lí thú hơn.

Nếu bạn từng có tuổi thơ với những ngày hè mộng mơ bên trang sách dang dở của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh hay từng lớn lên từ những miền quê Việt Nam thanh bình chắc hẳn bạn cũng không thể bỏ qua cuốn sách “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” – tác phẩm được giải thưởng văn học ASEAN năm 2010 của Nguyễn Nhật Ánh. Quyển sách đã gây sốt trở lại khi được đạo diễn Victor Vũ chuyển thể thành bộ phim với tựa đề được giữ nguyên.

Nguyễn Nhật Ánh quê tại thôn An Mỹ, xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Là nhà văn nổi tiếng của Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông được mệnh danh là ông hoàng của dòng văn học trẻ thơ. Trước trào lưu văn học nước ngoài ngày càng được giới trẻ ưu thích thì những tác phẩm viết về tuổi thơ của ông vẫn thu hút được sự quan tâm của bạn đọc. Đó là minh chứng cho sự tồn tại mạnh mẽ của văn học Việt Nam.

“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một cuốn tiểu thuyết dành cho thanh thiếu niên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên tại Việt Nam ngày 9 tháng 12 năm 2010. Đây là một trong các truyện dài của ông, ra đời sau “Đảo mộng mơ” và “Lá nằm trong lá”. “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” là một trong những quyển sách Việt Nam bán chạy nhất năm 2010 đến bây giờ. Tổng số bản in lên đến hơn 20.000 bản.

Câu chuyện là những trang nhật ký xoay quanh cuộc sống thường ngày và tâm tư của cậu bé Thiều – 13 tuổi. Thiều sống ở một vùng quê nghèo, cùng với một người em trai tên Tường – một cậu bé dễ thương, hiền lành, bao dung. Trong khi đó Thiều vốn là một người hướng ngoại, khá tinh quái, trong thâm tâm mình cậu rất thương em mình và là một người hào hiệp. Truyện cũng mở ra mối quan hệ giữa hai anh em và những người dân trong ngôi làng, gồm cả người thân và những người bạn cùng lớp. Thiều nhận ra mình có tình cảm với Mận – cô bé xinh xắn, học chung lớp nhưng hơn cậu một tuổi. Biến cố xảy ra khi căn gác nhà Mận bốc cháy, gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận và đưa cô bé về sống chung với gia đình. Tuy nhiên, sự thân thiết của Tường và Mận khiến cho cơn ghen tức trong Thiều tăng theo thời gian. Mùa lũ đến, cả làng chìm trong nước, khi nước rút đi để lại nhiều hậu quả như đói kém, mất mùa. Cùng lúc đó sự hẹp hòi và đố kỵ trong Thiều nhiều đến mức khiến cho em trai mình bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Một hôm, Thiều mừng rỡ khi Tường ngồi dậy được và kể về một nàng công chúa chơi thân với Tường khiến Tường có động lực hồi phục. Công chúa ấy thật ra là Nhi – con của một người mổ lợn trong làng, có vấn đề về thần kinh nên tự nhận mình là công chúa. Sự nôn nóng được gặp Nhi thôi thúc Tường tập đi lại. Khi hai anh em thấy Nhi bị bắt nạt, Tường đã chạy hết sức bằng đôi chân của mình để bảo vệ Nhi, kỳ diệu thay nhờ đó mà cô bé nhớ ra mọi chuyện và trở lại bình thường.

Cuốn sách “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” không chỉ là cuốn sách chỉ để đọc một lần, thi thoảng chúng ta mở vài trang rồi gấp lại để khiến tâm hồn thêm chút thư thái, thảnh thơi giữa cuộc sống vội vã. Trong tác phẩm “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” của Nguyễn Nhật Ánh cũng viết rằng: “Cuốn sách này không dành cho trẻ em nhưng viết cho những ai từng là trẻ em”. Và ở cuốn sách “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” cũng vậy, cuốn sách không chỉ dành cho các em thiếu nhi mà dành cho ai từng có một tuổi thơ.

Có thể nói sách là thứ không thể thiếu trong cuộc đời mỗi con người, sách cho ta tri thức, nuôi dạy tâm hồn và trí tuệ của con người. Và chắc hẳn ai cũng có ít nhất một cuốn sách yêu thích của riêng mình và tôi cũng vậy. “Những kẻ mộng mơ” của Elvis Nguyễn là cuốn sách mà tôi trân quý nhất.

Có thể khẳng định rằng, cuốn sách này sẽ hấp dẫn bạn ngay từ cái nhìn đầu tiên. Sự thu hút của nó đến từ cách mà tác giả phối màu và trang trí bìa sách. Cuốn sách nhỏ gọn, dài khoảng 17cm, rộng 12cm, tông màu trắng xám rất phù hợp với nội dung của cuốn sách. Mặt bìa bọc bìa bóng sáng, trơn nhẵn. Tác giả thật tinh tế và biết cách chiều lòng bạn đọc khi đính kèm theo cuốn sách những tấm ảnh nhỏ xinh dùng để người đọc viết lại cảm nhận của bản thân.

Hẳn rằng mỗi người chúng ta ai cũng đã có lần cảm thấy rằng mình thật vô dụng, rằng cuộc sống quá nhàm chán khiến ta bất lực, con người ta cảm thấy thật đơn độc, mệt mỏi và đánh mất bản thân mình. Vậy thì đây là cuốn sách dành cho bạn. Cuốn sách giúp ta tìm lại chính mình, dẫn lối mình đến với bình yên và hạnh phúc. Cuốn sách không hẳn là tản văn hay tiểu thuyết mà có lẽ đơn giản chỉ là một cuốn nhật kí, nhật kí của những người đang theo đuổi đam mê, người theo đuổi danh vọng hay kẻ đang tìm kiếm tình yêu hoặc một thứ gì khác. Bởi vậy ta có thể nhìn thấy được bản thân mình ở trong đó. Tuổi trẻ đầy những hoài bão nhưng cũng chất chứa nhiều nỗi đau, những vấp ngã khiến ta cảm nhận rõ vị mặn chát của những tổn thương. Ta cảm nhận được vị cuộc đời: “Chúng ta ngủ vùi tuổi thanh xuân của mình trong một quãng đời. Khi tỉnh giấc chúng ta cố gắng tìm hiểu xem mình là ai. Tại sao mình lại tồn tại ở trên đời?”. Vậy tuổi trẻ có gì? Có lẽ là sự cô đơn, sự yếu đuối cùng cực khi đối mặt với cuộc sống. Với lời văn giản đơn không quá màu mè trau chuốt mang lại cho ta nhiều cảm giác chân thực, đầy những cảm xúc lẫn lộn. Ta như có sự đồng điệu với tác giả, từ đó soi chiếu vào bản thân, tìm sự giải thoát cho những khúc mắc trong quá khứ, mở lòng bao dung cho những điều đã qua để trưởng thành, để bắt đầu một hành trình mới.

Trong những tháng ngày, bản thân mệt mỏi muốn chùn bước, cuốn sách là liều thuốc xoa dịu tâm hồn tôi, làm tôi cảm thấy mình được sẻ chia, thấu hiểu: “Tuổi trẻ chúng ta như một giấc mộng dài không lối thoát. Cho tới ngày chúng ta tỉnh giấc và tìm ra hướng đi cho riêng mình”. Tuổi trẻ của tôi đã có lúc là một trang giấy trắng vì sự lạc lối mất phương hướng nhưng đã có lúc nó cũng là trang giấy úa vàng nhuốm màu vì những giọt mồ hôi và cả nước mắt.

“Có những thứ ở lại. Có những thứ sẽ đi. Một lúc nào đó. Một nơi nào đó. Chúng ta bám víu cảm xúc, sự mất mát. Mà trưởng thành. Quên hết tất cả, hay chấp nhận hiện thực rằng chúng ta đã xa? Mong ai đó an yên cùng tôi” – Elvis Nguyễn.

Sách đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người. Bởi vậy, câu mới có câu nói: “Cuộc đời ta thay đổi theo hai cách: qua những người ta gặp và qua những cuốn sách ta đọc”. “Thép đã tôi thế đấy” là một trong số những cuốn sách như vậy. Cuốn sách từng được gọi là “cuốn sách gối đầu giường” của biết bao thế hệ thanh niên ở nước Nga và cả trên thế giới.

“Thép đã tôi thế đấy” là một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nikolai A. Ostrovsky – một nhà văn nổi tiếng người Liên Xô. Nhân vật chính của tác phẩm là Pavel Korchagin (thường được gọi là Pavlusha, Pavka) là một thanh niên lớn lên trong khi điều kiện đất nước đang gặp nhiều khó khăn. Anh chơi thân với một cô bạn gái tên là Tonya, mà sau này trở thành người yêu. Tonya là một cô gái xinh xắn, yêu Pavel với tất cả tình cảm ban đầu trong trắng ngây thơ của một thiếu nữ mới lớn. Tình cảm của hai người có lẽ sẽ rất đẹp và trọn vẹn nếu như không có chuyện Pavel đi theo tiếng gọi của lý tưởng giai cấp lúc đó. Đó là ý tưởng muốn cống hiến sức trẻ của mình phục vụ cho Tổ quốc, cho cách mạng. Tonya rất yêu Pavel nhưng không thể đợi anh, hay đúng hơn là không dám “yêu một lý tưởng”. Đặc biệt là khi gia đình của cô lại thuộc giai cấp tư sản. Pavel từng nói với cô rằng: “Anh trước hết là người của Đảng – sau đó mới là người của em và những người thân khác. Em có gan yêu một công nhân, nhưng lại không có gan yêu một lý tưởng”. Sau cùng, Pavel chia tay Tonya để đi theo lý tưởng của mình.

Trước khi tìm đến ánh sáng của cách mạng, Paven đã có một khoảng thời gian phải tham gia xây dựng con đường sắt nhỏ nối khu rừng với thành phố. Công việc ở đây vô cùng nặng nhọc và vất vả trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nếu không kịp thì tất cả mọi người trong thành phố này sẽ chết cóng vì không đủ gỗ để sưởi ấm. Trong hoàn cảnh đó, anh gặp lại Tonya, và cô đã suýt không nhận ra anh vì trông anh đã hoàn toàn khác, rách rưới, tím tái vì giá lạnh, gầy gò như một người ăn xin và đang xúc tuyết, tuy có đôi mắt thì vẫn là Pavlusha ngày nào. Tuy nhiên, cô đã không dám bắt tay anh khi anh đưa tay ra và anh hiểu rằng, tình cảm cũ giữa hai người vĩnh viễn không còn nữa. Cô giờ đây đã có chồng và “sặc mùi băng phiến”.

Sau này, trong quá trình lao động và sinh hoạt trong tổ chức Đảng, Pavel đã gặp Rita và được cô quý mến. Nhưng tình cảm giữa hai người chỉ giữ ở tình đồng chí… Về sau, có lúc Pavel bị bệnh sốt thương hàn và bị bại liệt, phải ngồi xe lăn. Nhưng anh vẫn không lùi bước trước khó khăn, tin tưởng vào tình yêu mới và chuyển sang viết sách vẫn với ngọn lửa và chất thép đã được tôi luyện ngày nào.

Cuốn sách “Thép đã tôi thế đấy” được coi là cuốn sách gối đầu giường của thế hệ thanh niên ở các nước xã hội chủ nghĩa. Paven là một thanh niên giàu lý tưởng, được tôi luyện trong “lò lửa” của cách mạng. Ở Việt Nam, cuốn sách này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến thế hệ trẻ trong những năm tháng chiến tranh. Nguyễn Văn Thạc có viết trong cuốn sách “Mãi mãi tuổi hai mươi” của mình: “Paven là một người chân chính, một Đảng viên chân chính. Dĩ nhiên rồi, đó phải là con người của giai cấp, suốt đời trung thành với Đảng, và cống hiến cả đời mình cho cách mạng. Mà mình, dường như vẫn còn nhỏ lắm, trẻ con lắm, chưa là người lớn đâu. Mình còn cá nhân lắm, nhỏ nhen và ti tiện. So bì thiệt hơn, đòi hỏi bao nhiêu thứ. Cuộc sống của mình không bằng 1% cuộc sống của Paven… Đừng lười nữa. Sống say mê và dồn ép lại, đừng để những tháng ngày trôi qua vô vị nữa… Cuộc sống của Paven là một dòng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một chiến sĩ hồng quân. Mình thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn cuộc đời dành cho Đảng, cho giai cấp. Sống vững vàng trước những cơn bão táp của cách mạng và của cuộc đời riêng…”. Hay như trong nhật ký Đặng Thùy Trâm, chị cũng đã viết rằng trên mảnh đất miền Nam hầu như không lúc nào ngưng tiếng súng nổ này, 100% các gia đình đều có tang tóc, chết chóc đau thương đè nặng lên mỗi người dân. Vậy mà, ở giữa cái nơi sự “gian nan, chết chóc, hy sinh còn dễ dàng hơn ăn một bữa cơm” ấy, có những người lính như chị nằm dưới công sự nghe giặc đào ở trên mà vẫn kể cho nhau nghe chuyện về anh chàng Pavel Korchagin trong “Thép đã tôi thế đấy”.

Câu nói nổi tiếng nhất trong “Thép đã tôi thế đấy” đã trở thành tuyên ngôn cho lẽ sống của nhiều thanh niên: “Cái quý nhất của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người…”

Như vậy, “Thép đã tôi thế đấy” thực sự là một cuốn sách giàu giá trị nhân văn cao đẹp. Cuốn sách đã đem lại nhiều bài học ý nghĩa cho mỗi người đọc.

Văn Mẫu Lớp 8: Nghị Luận Về Đức Hi Sinh Trong Cuộc Sống 3 Dàn Ý &Amp; 15 Bài Văn Mẫu Lớp 8 Hay Nhất

Người có đức hi sinh sẽ được người khác yêu mến, kính trọng và học tập theo. Đức hy sinh là một trong những đức tính quý báu của con người cần phát huy hơn nữa. Vậy mời các em cùng tải miễn phí bài viết về tham khảo, để ngày càng học tốt môn Văn 8.

Dàn ý nghị luận về đức hi sinh trong cuộc sống (3 mẫu)

Nghị luận về đức hi sinh

Đoạn văn nghị luận về đức hi sinh

Suy nghĩ về đức hy sinh

Nghị luận về đức hi sinh trong cuộc sống ngắn gọn (6 mẫu)

Nghị luận về đức hi sinh trong cuộc sống đầy đủ (6 mẫu)

1. Mở bài

Giới thiệu và dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận: đức hi sinh.

2. Thân bài

a. Giải thích

Đức hi sinh: sự nhường nhịn, chấp nhận phần thiệt thòi hơn về mình (có thể là vật chất, tinh thần hoặc thậm chí là cả mạng sống) để người khác có được cuộc sống và những điều tốt đẹp hơn. Đức hi sinh là một đức tính tốt đẹp, cao cả của con người mà mỗi người cần có.

b. Phân tích

– Biểu hiện của người có đức hi sinh:

Biết nhường nhịn, không ganh đua, hơn thua với người khác, sẵn sàng cho đi mà không mong nhận lại.

Vì lợi ích chung mà gạt bỏ đi cái tôi, sự ích kỉ của bản thân, biết lấy cái lớn làm mục tiêu cao cả.

Hi sinh có nhiều mức độ, từ cái nhỏ đến cái lớn, có khi là hi sinh cả mạng sống, cả tuổi xuân của mình để bảo vệ lẽ phải, những điều đúng đắn.

– Ý nghĩa của đức hi sinh trong cuộc sống:

Người có đức hi sinh sẽ khiến xã hội nhiều tình yêu thương hơn. Hi sinh đi cùng với khoan dung, hai đức tính này làm bản thân mỗi người ngày càng tốt hơn.

Người có đức hi sinh sẽ được người khác yêu mến, kính trọng và học tập theo, lan tỏa được nhiều thông điệp tích cực ra cộng đồng.

c. Chứng minh

Học sinh tự lấy những dẫn chứng về những người giàu đức hi sinh, sẵn sàng hi sinh vì lợi ích chung để minh họa cho bài làm văn của mình.

d. Phản đề

Bên cạnh đó vẫn còn nhiều người có tính ích kỉ chỉ biết nghĩ đến bản thân mình và lợi ích của mình mà không quan tâm đến những người xung quanh, cho rằng khi hi sinh là thiệt thòi, là không đáng,…

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề nghị luận: đức hi sinh, đồng thời rút ra bài học cho bản thân.

….

Mở bài:

Để có được một cuộc sống thành công, hữu ích và hạnh phúc, con người cần hình thành và rèn luyện cho mình nhiều phẩm chất tốt đẹp. Một trong những phẩm chất cần có ấy là đức hi sinh.

Thân bài:

1. Giải thích: Đức hi sinh là gì?

Đức hi sinh là sự nhường nhịn, chấp nhận phần thiệt thòi hơn về mình (có thể là vật chất, tinh thần hoặc thậm chí là cả mạng sống) để người khác có được cuộc sống và những điều tốt đẹp hơn.

Hi sinh là một đức tính cao quý của con người. Hi sinh là vì người khác mà chịu sự thiệt thòi về bản thân mình. Đó là những suy nghĩ, hành động tự nguyện vì người khác, không vụ lợi cá nhân, đặt lợi ích của người khác lên trên lợi ích của bản thân mình.

2. Bàn luận về vai trò của đức hi sinh.

Mỗi chúng ta ai ai cũng sẽ gặp phải những khó khăn, thử thách nhất định trong cuộc sống của mình. Khi người khác hi sinh cho chúng ta, chúng ta sẽ trở nên tốt hơn, chính vì vậy, sự hi sinh của chúng ta đối với người khác cũng sẽ làm cho họ tốt hơn.

Người có đức hi sinh được mọi người tôn trọng, yêu quý. Đức hi sinh giúp con người sống gần gũi với nhau hơn, biết yêu thương nhau hơn.

Nếu xã hội không có sự hi sinh con người sẽ trở nên ích kỉ, vô cảm chỉ muốn vơ vét những tư lợi về mình, dần dần sẽ dẫn đến tình trạng suy thoái đạo đức, xã hội sẽ đi xuống.

Người có đức hi sinh sẽ được người khác yêu mến, kính trọng và học tập theo, lan tỏa được nhiều thông điệp tích cực ra cộng đồng.

3. Chứng minh:

– Biết sống vì người khác, dám hi sinh để bảo vệ quê hương, đất nước là một phẩm đức cao quý của con người Việt Nam từ xưa đến nay:

+ Trong chiến tranh:

Rất nhiều anh hùng, chiến sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc, mang lại cuộc sống hòa bình, ấm no cho nhân dân.

Họ không ngại gian khổ mà hăng hái tham gia chiến đấu.

Các dẫn chứng tiêu biểu: Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân; người anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong chiến dịch Điện Biên Phủ; Bế Văn Đàn lấy vai làm giá súng, Tô Vĩnh Diện dùng thân chèn pháo,…

+ Trong đời sống hàng ngày:

Cha mẹ lao động vất vả, hi sinh vì các con để các con có một cuộc sống đầy đủ, tốt đẹp.

Những con người hi sinh bản thân để cứu bạn bè hoặc người khác khi họ gặp nạn: anh Trần Hữu Hiệp trong vụ chìm tàu ở vùng biển Cần Giờ, em Nguyễn Văn Nam đã hi sinh cứu 5 em nhỏ bị đuối nước,…

Những người chiến sĩ, giáo viên tình nguyện ra biển đảo hoặc lên miền núi để công tác, làm việc,…

+ Chủ tịch Hồ Chí Minh và thế hệ các vị anh hùng đi trước hi sinh tuổi xuân và cả mạng sống của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc; mẹ là người hi sinh cho những người con,…

4. Phê phán:

Tuy nhiên trong cuộc sống vẫn còn nhiều người có tính ích kỉ chỉ biết nghĩ đến bản thân mình và lợi ích của mình mà không quan tâm đến những người xung quanh, cho rằng khi hi sinh là thiệt thòi, là không đáng,… những người này đáng bị xã hội thẳng thắn phê phán, chỉ trích.

5. Bài học nhận thức và hành động:

– Đức hi sinh là một trong những phẩm chất cần có ở mỗi con người. Dám hi sinh sẽ giúp con người biết sống vì người khác nhiều hơn, xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Phê phán những con người sống vô cảm, ích kỉ, không biết hi sinh vì người khác.

– Phải biết sống vì người khác, rèn luyện đức hi sinh cho bản thân. Không quên ơn những người đã hi sinh vì mình. Phát huy đức tính cao đẹp của dân tộc.

Kết bài:

Đức tính hi sinh là truyền thống quý báu của dân tộc ta từ bao đời nay. Cần rèn luyện, trau dồi nhân cách, phẩm giá để góp phần làm cho cuộc sống ngày càng có ý nghĩa hơn.

Hi sinh là chịu thiệt hại, mất mát quyền lợi về vật chất, tinh thần hoặc một bộ phận nào đó trên cơ thể nhằm một mục tiêu cao cả hoặc một lý tưởng tốt đẹp. Nên hiểu, hi sinh là sẵn sàng cho đi một phần lợi ích của bản thân vì người khác. Sự hi sinh cao nhất là hi sinh sự sống vì sự nghiệp bảo vệ, giữ gìn độc lập, tự do của tổ quốc. Người biết hi sinh vì người khác là người luôn sống vị tha, biết yêu thương người khác, sẵn sàng cho đi những lợi ích của mình giúp người khác vượt qua khó khăn, thử thách. người có đức hi sinh luôn được người khác kính trọng và yêu mến. Ngược lại, người không biết hi sinh vì người khác luôn ích kỉ, chỉ biết đến bản thân mình, không bao giờ cảm thông hay chia sẻ với nỗi khổ đau của người khác, sống cuộc đời hèn kém. Đức hi sinh là phẩm chất cao quý của con người. Ai cũng cần có đức hi sinh bởi khi chúng ta biết hi sinh cho nhau, chia sẻ những gì mình có vì lợi ích chung của cộng đồng thì xã hội sẽ không ngừng phát triển, tình người gắn kết bền chặt hơn. Tuy nhiên, chỉ nên hi sinh cho những gì xứng đáng, cao quý và thiêng liêng chứ không phải là hi sinh một cách mù quáng. Hi sinh là cần thiết nhưng đừng để sự hi sinh của mình bị lợi dụng để làm lợi cho một cá nhân nào đó.

Thực tế cuộc sống đa dạng, phong phú mang lại cho con người những cảm xúc, suy nghĩ và những bài học sâu sắc về con người, về cuộc đời. Một trong những bài học đó là bài học về đức hi sinh.

Con người là một động vật cao quí vì con người có trí tuệ và đạo đức. Một trong những phẩm chất cao đẹp của con người là đức hi sinh.

Đức hi sinh là một trong những phẩm chất cao quý của con người. Đó là sự quên mình để lo cho tha nhân. Sự hi sinh thiêng liêng và gần gũi nhất là của cha mẹ dành cho con cái. Hình ảnh những nếp nhăn trên gương mặt cha, những giọt mồ hôi thấm trên vai mẹ vì lo toan cho con cái chính là những biểu hiện sống động và đầy cảm xúc của tình phụ tử và mẫu tử. Những nếp nhăn và những giọt mồ hôi là những chi tiết thực tế nhưng là biểu tượng nghệ thuật trong văn học có sức gợi cảm và lay động lòng người. Chính sự hi sinh của cha mẹ đã là nền tảng tạo nên tình cảm và phẩm chất tốt đẹp cho con cái. Sự trưởng thành của những đứa con được nuôi dưỡng bằng chính sự hi sinh của cha mẹ. Sự hi sinh được biểu hiện ở tất cả những con người có phẩm chất cao quý. Cho nên ngoài sự hi sinh của cha mẹ đối với con cái, đó còn là sự hi sinh của những thành viên này trong gia đình đối với những thành viên khác như ông bà – con cháu, anh chị em, con cái – cha mẹ…

Gương hi sinh còn được thể hiện trong những tình huống phong phú của cuộc sống. Trong thời chiến, bao nhiêu chiến sĩ vô danh đã hi sinh trong trận chiến chống xâm lược từ thời bắc thuộc, thời phong kiến độc lập tự chủ, thời chống Pháp, thời chống Mỹ để đất nước ta có được hòa bình và độc lập. Hàng vạn chiến sĩ, thanh niên xung phong đã hi sinh cả thời tuổi trẻ của mình, đã đi mãi không về vì bảo vệ đất nước, quê hương.

Trong thời bình, hàng triệu người đã âm thầm hi sinh trong việc đóng góp cho sự tiến bộ của nhân loại. Hình ảnh nhà khoa học suốt đời cặm cụi trong phòng thí nghiệm, các thầy cô giáo suốt đời tận tụy vì thế hệ tương lai. Những công nhân vệ sinh đêm đêm quét rác cho thành phố sạch đẹp…Trong một gia đình nghèo, đôi khi anh chị phải hi sinh nghỉ học để cho em mình được đi học…Có vô vàn tấm gương hi sinh mà chúng ta nghe thấy được, biết được qua sách báo… Có vô vàn con người đã thầm lặng hi sinh cho đồng loại, cho thiên nhiên và cho môi trường sống mà chúng ta không hề hay biết…

Người đời đã ghi nhớ, khắc tên biết bao nhiêu người đã dũng cảm hi sinh vì lợi ích của đất nước. Trong lịch sử, không quên hình ảnh Lê Lai – một vị tướng thời nhà Lê, đã liều mình cứu chúa. Ông đã hi sinh mạng sống của mình để cứu nguy cho Lê Lợi, cũng là cứu cả dân tộc Việt Nam. Trong kháng chiến, Nguyễn Văn Trỗi đã hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc gia đình chọn con đường, đầy khó khăn, nguy hiểm – diệt bộ trưởng Mỹ – để mang lại cuộc sống cho toàn dân. Ngày nay đất nước hòa bình thống nhất, nhiều chiến sĩ công an vẫn làm việc ngày đêm không nghỉ ngơi để đảm bảo trật tự an ninh xã hội cho nhân dân. Họ là những người làm việc thầm lặng, hi sinh quyền lợi của mình cho mọi người.

Đức hi sinh có giá trị rất to lớn. Nó không chỉ nói lên giá trị của con người mà còn góp phần làm thăng hoa giá trị ấy. Hi sinh là một nguồn sức mạnh tinh thần rất to lớn giúp người ta sống và hành động. Nó khiến cha mẹ vì con cái mà hi sinh niềm vui, sự sung sướng của riêng mình để chịu vất vả lam lũ để con cái được khỏe mạnh, vui sướng, trưởng thành. Người chiến sĩ vì tổ quốc mà sẵn sàng chịu khổ cực nơi đầu sóng ngọn gió, hi sinh mạng sống để bảo vệ đất nước quê hương. Với đức tính hi sinh, nhiều thầy cô giáo đã từ bỏ những công việc có thể đem lại cuộc sống sung túc hơn để theo đuổi việc dạy dỗ giáo dục thế hệ trẻ…

Nguồn gốc, động cơ của đức tính hi sinh chính là tình yêu thương chân thật của con người. Chính tình yêu thương và sức mạnh của nó đã mang lại cho con người tinh thần sẵn sàng hi sinh vì người khác, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để mang lại lợi ích cho tha nhân. Phần lớn những công trình, những sự nghiệp có ý nghĩa lớn lao thường phảng phất sự hi sinh trong đó. Hi sinh là quý nhưng hi sinh cũng cần phải được dẫn dắt bởi một lý trí tỉnh táo, một tình cảm trong sáng, đúng đắn để tránh sự mù quáng và những hậu quả tai hại từ sự mù quáng đó. Sự hi sinh là một nét đẹp trong đời sống văn hóa của con người, nó cũng là nền tảng tạo nên những thành quả vĩ đại của nhân loại. Hi sinh là một giá trị phổ biến được ca ngợi không chỉ trong đời sống mà cả trong văn học.

Nếu như xã hội không có những người biết hi sinh vì mọi người thì làm sao có được cuộc sống bình yên tươi đẹp. Chúng ta cần rèn luyện đức tính hi sinh nhưng linh hoạt ngay từ khi còn là học sinh và phát huy để ngày càng có nhiều người biết “sống vì mọi người”.

Mỗi người trẻ chúng ta được sống trong nền hòa bình và tự do như hiện nay là một điều vô cùng may mắn. Nhưng không vì thế mà chúng ta bàng quang với xã hội mà ngay cả trong thời bình, chúng ta cũng cần có trách nhiệm với quê hương đất nước, và noi theo sự hi sinh thầm lặng trong cuộc sống.

Sự hi sinh là những hành động, những con người dũng cảm giúp đỡ người khác từ những hành động nhỏ nhất với tình yêu thương chân thành và cũng là những con người luôn có ý thức vươn lên xây dựng một xã hội tốt đẹp. Mỗi chúng ta hãy sống và lấy những con người có phẩm chất tốt đẹp đó làm gương, sống vì người vì đời. Chúng ta ai cũng hiểu rằng xã hội hiện nay có nhiều vấn đề nan giải, có nhiều tiêu cực xảy ra, mỗi con người chỉ cần có ý thức, sống có ích một chút xã hội này sẽ tốt đẹp hơn.

Khi mỗi chúng ta sống có ích và trở thành “người hi sinh thầm lặng” sẽ lan tỏa được nhiều thông điệp tích cực ra xã hội, được mọi người yêu quý, nể phục hơn. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện nay vẫn còn có những người ích kỉ, sống thờ ơ, vô cảm, bàng quang với mọi thứ xung quanh, chỉ biết đến lợi ích của bản thân mình… những người này đáng bị xã hội thẳng thắn phê phán, chỉ trích.

Mỗi người có một ước mơ, hoài bão khác nhau, tuy nhiên nếu tất cả cùng cố gắng, biết hi sinh, cho đi mà không mong nhận lại chúng ta sẽ xây dựng được một đất nước vững mạnh, chan chứa tình yêu thương. Không một ai là hoàn hảo, nhưng khi ta biết cố gắng hoàn thiện bản thân và vươn lên phía trước, chúng ta sẽ đạt được những thành quả xứng đáng với công sức bỏ ra.

Dân tộc ta có rất nhiều phẩm chất quý báu và tốt đẹp được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Một trong số đó là sự hi sinh. Hi sinh. Hai chữ tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa sâu xa. Hi sinh là phẩm chất tốt đẹp, tự nguyện nhận phần thiệt thòi, mất mát, lớn lao nà về mình vì mục đích chung, lí tưởng cao đẹp….

Chính vì thể người đời vẫn luôn ghi nhớ công ơn biết bao vị anh hùng đã ngã xuống vì quê hương, dân tộc. Điển hình hình ảnh Lê Lai một người đã liều mình cứu chúa, xả thân vì nước để Lê Lợi sống sót. Lê Lai không những hi sinh mạng sống cứu nguy Lê Lợi mà còn cứu nguy cả dân tộc Việt Nam. Không những chúng ta phải ghi nhớ công lao của những vị anh hùng mà phải ghi nhớ công lao hàng vạn chiến sĩ trẻ, thanh niên xung phong đã hi sinh cả thời tuổi thanh xuân, đi mãi không về vì lí tưởng bảo vệ quê hương, đất nước,… Hi sinh ở đây không đồng nghĩa phải chết, mất mạng vì người khác. Đôi khi hi sinh thật đơn giản. Cha mẹ sẵn sàng hi sinh, giành điều tốt đẹp nhất cho con cái. Gia đình nghèo anh chị đành phải nghỉ học nhường em mình,.. Và còn nữa ở đâu đó vẫn còn vô vàn những người đã hi sinh, cống hiến thầm lặng cho đất nước, xã hội này ngày 1 trở nên tốt đẹp hơn mà ta không hay biết.

Thế nhưng ngoài những mảng sáng xã hội bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều loại người ham sống sợ chết, chỉ biết nghĩ cho lòng hẹp hòi bản thân không biết đặt lợi chung cộng đồng trên lợi ích riêng cá nhân. Chính vì thế những người này không được yêu quý, kính trọng. Vì thế nếu những ai tự xét lại bản thân, thấy mình vẫn tồn tại bản tính xấu, cần phải lập tức thay đổi. Biến điểm trừ thành điểm cộng. Có một câu nói của Charles Dickens mà tôi rất tâm đắc: sự quên mình là bi thương nhưng là thứ bi thương do con người tạo ra”.

Thật đúng vậy, do đó chúng ta hãy biết sống vì người khác, đừng ích kỉ riêng cá nhân, hãy mở rộng trái tim mình, một khi biết quan tâm đến mọi người xung quanh tức là bạn đã nếm trải được vì ngọt của sự hi sinh là như thế nào rồi đấy.

Một trong những phẩm chất ngàn đời của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay là đức hi sinh.

Đức hi sinh là phẩm chất tốt đẹp, tự nguyện nhận phần thiệt thòi, mất mát lớn lao nào đó vì mục đích, lí tưởng tình cảm cao đẹp. Đức hi sinh còn hi sinh cả thời gian, tình mạng của mình cho người khác

Người đời đã ghi nhớ, khắc tên biết bao nhiêu người đã dũng cảm hi sinh vì lợi ích của đất nước. Trong lịch sử, không quên hình ảnh Lê Lai – một vị tướng thời nhà Lê, đã liều mình cứu chúa. Ông đã hi sinh mạng sống của mình để cứu nguy cho Lê Lợi, cũng là cứu cả dân tộc Việt Nam. Trong kháng chiến, Nguyễn Văn Trỗi đã hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc gia đình chọn con đường, đầy khó khăn, nguy hiểm – diệt bộ trưởng Mỹ – để mang lại cuộc sống cho toàn dân. Ngày nay đất nước hòa bình thống nhất, nhiều chiến sĩ công an vẫn làm việc ngày đêm không nghỉ ngơi để đảm bảo trật tự an ninh xã hội cho nhân dân. Họ là những người làm việc thầm lặng, hi sinh quyền lợi của mình cho mọi người

Hi sinh là thước đo đánh giá phẩm chất của con người. Hi sinh không phải chịu thiệt vì mục đích cá nhân mà phải biết vì tập thể quê hương đất nước thì việc hi sinh mới có ý nghĩa. Hi sinh rèn luyện cho chúng ta đức tính dũng cảm, biết vượt qua những khó khăn rào cản trong cuộc sống chúng ta. Người có lòng hi sinh luôn được mọi người ghi nhớ công ơn đã góp phần đem lại cho đất nước phát triển. Người không có lòng hi sinh hay bị rụt rè, sợ sệt trước cái chết, không bản lĩnh thì làm chẳng ra hồn, những việc khó không muốn giải quyết.

Nếu như xã hội không có những người biết hi sinh vì mọi người thì làm sao có được cuộc sống bình yên tươi đẹp. Chúng ta cần rèn luyện đức tính hi sinh ngay còn khi là học sinh và phát huy để ngày càng có nhiều người biết “sống vì mọi người” hay “một người vì mọi người, mọi người vì một người”.

Đức hi sinh là một đức tính cao đẹp của dân tộc Việt Nam nói riêng và của toàn thế giới nói chung. hi sinh là hành động sống vì người khác, không vì lợi ích riêng của bản thân, bằng sự yêu thương, quý trọng,… để làm cho người khác có cuộc sống tốt đẹp hơn, lấy đó làm niềm vui, làm động lực cho mình.

Đức hi sinh được thể hiện ở nhiều thời điểm, nhiều nơi, nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể thấy trong các cuộc chiến tranh, sự hi sinh là vô cùng nhiều, được thể hiện ở các chiến sĩ vì lý tưởng cách mạng, vì tự do dân tộc đã lần lượt, nối tiếp nhau ngã xuống ở chiến trường bom đạn, các bà mẹ Việt Nam anh hùng đã phải hi sinh đứa con dứt ruột đẻ ra, không sợ hiểm nguy bảo vệ các chiến sĩ, đối mặt với giặc, với cái chết cũng vì một mục đích là hòa bình dân tộc,… Không chỉ trong thời chiến mà trong cuộc sống ngày nay, những thanh niên tình nguyện đã hi sinh bao giọt máu, bao bộ phận trên cơ thể,… để đổi lấy sự sống cho nhiều trẻ em, nhiều cụ già, mang lại hạnh phúc cho họ. Hay nhiều người, nhiều thế hệ hi sinh bản thân, trí tuệ để góp phần đưa đất nước phát triển.

Trong mỗi gia đình, hình ảnh những người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, thức khuya dậy sớm, không quản khó nhọc gánh hàng ra chợ bán kiếm vài đồng bạc lẻ, gom góp đủ tiền để lo cho con cái ăn học, đầy đủ mọi thứ bằng bạn, bằng bè, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, giữa trưa nắng gắt mà vẫn cặm cụi ngoài đồng chỉ để kiếm bát cơm, manh áo cho con, mong con được no đủ. Những người anh, người chị sẵn sàng nghĩ học để có tiền cho em được đến trường, tất cả những sự hi sinh của cha mẹ, anh chị,… thật cao cả biết bao. Đức hi sinh là một đức tính vô cùng cao đẹp, nó giúp cho xã hội ngày càng tốt đẹp, quan hệ giữa con người với con người trở lên gắn bó, khăng khít hơn, qua đó còn thể hiện sự quan tâm, lòng yêu thương với người được ta hi sinh, thể hiện sự cao thượng, vĩ đại của bản thân mình. hi sinh là một hành động cao cả, vì vậy mà chúng ta phải biết trân trọng sự hi sinh mà người khác dành cho mình, bên cạnh đó còn phải biết sống hi sinh vì người khác, không được ích kỉ, vô tâm.

Con người để hoàn thiện bản thân thì phải không ngừng trau dồi nhiều đức tính quý báu. Một trong những đức tính tốt đẹp mà chúng ta cần có chính là đức tính hi sinh.

Vậy thế nào là đức hi sinh? Đức hi sinh chính là sự nhường nhịn, chấp nhận phần thiệt thòi hơn về mình (có thể là vật chất, tinh thần hoặc thậm chí là cả mạng sống) để người khác có được cuộc sống và những điều tốt đẹp hơn. Đức hi sinh là những đức tính tốt đẹp mà chúng ta cần phải rèn luyện.

Mỗi chúng ta ai ai cũng sẽ gặp phải những khó khăn, thử thách nhất định trong cuộc sống của mình. Khi người khác hi sinh, giúp chúng ta một điều gì đó, chúng ta sẽ trở nên tốt hơn, chính vì vậy, sự hi sinh của chúng ta đối với người khác cũng sẽ làm cho họ tốt hơn. Nếu xã hội không có sự hi sinh con người sẽ trở nên ích kỉ, vô cảm chỉ muốn vơ vét những tư lợi về mình, dần dần sẽ dẫn đến tình trạng suy thoái đạo đức, xã hội sẽ đi xuống. Bên cạnh đó, sống với đức hi sinh chúng ta sẽ được người khác yêu mến, kính trọng và học tập theo, lan tỏa được nhiều thông điệp tích cực ra cộng đồng.

Tuy nhiên trong cuộc sống vẫn còn nhiều người có tính ích kỉ chỉ biết nghĩ đến bản thân mình và lợi ích của mình mà không quan tâm đến những người xung quanh, cho rằng khi hi sinh là thiệt thòi, là không đáng. Lại có những người hi sinh quá nhiều cho người khác mà khiến bản thân mình chịu thiệt thòi, bỏ lỡ những cơ hội tốt trong cuộc sống,… những người này cần xem xét lại những suy nghĩ và hành động của bản thân để có thể cân bằng được cuộc sống giữa cho và nhận.

Hi sinh là một đức tính tốt đẹp mà chúng ta cần rèn luyện trong quá trình hoàn thiện và phát triển bản thân. Không một ai là hoàn hảo, nhưng khi ta biết cố gắng hoàn thiện bản thân và vươn lên phía trước, chúng ta sẽ đạt được những thành quả xứng đáng với công sức bỏ ra.

Trong cuộc sống, sự hi sinh chính là biểu hiện của tình yêu thương và sự cho đi trong cuộc sống. Thật vậy, nhờ có đức tính hi sinh mà con người có thể mang đến hạnh phúc cho những người xung quanh cũng như mang đến hạnh phúc cho mình từ những hành động hi sinh ấy. Hi sinh chính là hành động cho đi, cống hiến một thứ gì đó của bản thân để cho người khác được hạnh phúc hơn, để cho cuộc sống xung quanh được tốt đẹp hơn.

Đầu tiên, đức hi sinh có thể được biểu hiện ở cấp độ gia đình. Trong gia đình, bố mẹ sẽ là người có đức tính hi sinh cho con cái, sẵn sàng cho đi mọi thứ, tạo mọi điều kiện tốt nhất để con cái mình có thể học hành và có một tương lai tươi đẹp nhất. Mọi hành động dành cho con cái mình, dù rất nhỏ nhưng đều là đức hi sinh cao cả, là tình yêu thương mà cha mẹ dành cho con, chẳng cần nghĩ đến mình vì sự ưu tiên đối với con cái là cao nhất.

Thứ hai, đức tính hi sinh có thể được thể hiện ở sự hi sinh đối với đất nước, với cuộc sống, với cộng đồng. Dù trong thời bình hay trong thời chiến, những con người có đức hi sinh, sẵn sàng hi sinh thầm lặng vì cuộc sống chung vẫn là những con người vĩ đại nhất. Đó là anh bộ đội ngã xuống vì độc lập dân tộc, là người cảnh sát hi sinh trước phát súng của tội phạm để bảo vệ nạn nhân, là những y bác sĩ hi sinh vì bình yên của thế giới trong thời kỳ dịch bệnh Covid-19.

Cuối cùng, đức hi sinh còn được thể hiện ở việc hi sinh cho những người không quen biết. Đó chính là xuất phát từ trong lòng tốt, từ trong tâm hồn cao đẹp của những người muốn đem đến hạnh phúc cho những người xung quanh và cho chính bản thân mình. Tóm lại, đức hi sinh chính là phẩm chất cao đẹp cần có ở mỗi người.

Đạo đức truyền thống của chúng ta đề cao Đức hi sinh ở người phụ nữ, có mục đích giáo dục Đức hi sinh ở người phụ nữ, và có ý thức đòi hỏi Đức hi sinh ở người phụ nữ, nhưng lại không có những biểu hiện tương tự đối với nam giới. Tại sao vậy?

Điều này đã làm dấy lên không biết bao nhiêu cuộc tranh luận giữa chúng ta, đặc biệt là trong giai đoạn gần đây khi tư tưởng bình đẳng nam nữ ngày càng được quan tâm và phổ biến trong xã hội. Những cuộc tranh luận diễn ra giữa người nam và người nữ, giữa truyền thống và hiện đại, giữa cũ và mới, giữa người trẻ với người già… Nhưng hầu hết những cuộc tranh luận đều không đi đến sự thống nhất tổng thể hay những giải pháp cụ thể và toàn diện, bởi chúng ta đã không nhìn nhận từ gốc rễ của vấn đề.

Trước hết, cần phải hiểu thế nào là “Đức hi sinh”.

Chúng ta vẫn thường cho rằng hi sinh là sự mất mát, nhưng đó là một cái nhìn phiến diện, hẹp hòi. Hi sinh là một sự đánh đổi, đánh đổi những lợi ích trước mắt để lấy cái lợi ích lâu dài, đánh đổi cái niềm vui nhỏ bé để được cái ý nghĩa lớn lao, đánh đổi sự thỏa mãn của một bộ phận để đảm bảo sự ổn định của toàn thể… Người ta sẽ cảm thấy hi sinh là sự mất mát chỉ khi không nhìn thấy được cái lợi ích lâu dài, không cảm nhận được những ý nghĩa lớn lao, không ý thức được cái trường tồn của toàn thể.

Một người mẹ dành nhiều thời gian, tâm huyết và tiền bạc để nuôi dưỡng và giáo dục đứa con của mình sẽ được nhìn nhận là gì? Sẽ nhìn nhận đó là sự hi sinh nếu người mẹ đó không cảm nhận được niềm vui khi chứng kiến đứa con mình ngày một trưởng thành, không thấy trước được viễn cảnh đứa bé kia sẽ trở thành một con người hoàn thiện và đẹp đẽ. Sẽ nhìn nhận đó là sự đánh đổi tích cực nếu người mẹ đó hiểu rằng chỉ cần 1/3 thời gian trong 1/3 cuộc đời của mình thôi cũng đã tạo ra được một cuộc đời mới, một con người mới, một nhân cách mới hoàn chỉnh. Và sẽ là hạnh phúc khi người mẹ đó có tình yêu với đứa con của mình, với gia đình của mình, với người chồng của mình, nhìn nhận việc nuôi dạy đứa trẻ cùng chồng như là một sự tận hưởng tình yêu và trải nghiệm cuộc sống.

Đức hi sinh không phải là sự hi sinh. Đức hi sinh là ý thức sẵn sàng hi sinh, khả năng sẵn sàng hi sinh được tích lũy trong tâm thức ở mỗi con người. Nó có thể được tích lũy dưới dạng những cảm xúc thiêng liêng được vun đắp từ nhỏ, hay là sự lựa chọn của những suy nghĩ thấu đáo.

Một con người có Đức hi sinh có khả năng coi việc hi sinh những lợi ích của mình cho một giá trị nào đó xứng đáng như là một điều hết sức tự nhiên, như là một bổn phận hay trách nhiệm, như là chính ý nghĩa sự tồn tại của mình, như là chính niềm vui, là hạnh phúc của mình. Và bởi vì thế, Đức hi sinh không phải là một gánh nặng, một trách nhiệm, mà là một sự cứu rỗi cho cảm xúc, cho nhận thức, cho tâm hồn của họ.

Chúng ta, dù ít hay nhiều cũng đều hiểu và tin vào luật nhân quả, rằng ở hiền thì gặp lành, ác giả thì ác báo. Đều tin rằng cuộc sống này vốn công bằng và không ai chỉ cho đi mà không được nhận lại, hay chỉ biết nhận mà không phải cho đi. Chúng ta cũng biết rằng sự cho đi là tiền đề để xây dựng những mối quan hệ, những tình cảm, những giá trị sống đẹp đẽ… Thế nên, có được ý thức sẵn sàng cho đi đã là một sự may mắn, bởi khi đó con người không phải nuối tiếc khi phải cho đi mà vẫn có cơ hội tận hưởng niềm vui khi nhận lại. Sẽ còn may mắn hơn nếu như con người biết dành sự hi sinh cho những điều xứng đáng, bởi khi đó họ có cơ hội nhận lại gấp nhiều lần. Và, hạnh phúc thay, khi những người cho đi kia nhìn nhận sự cho đi như là một niềm hạnh phúc, khi ấy, cuộc sống của họ sẽ ngập tràn hạnh phúc, và chúng ta nói rằng những con người ấy có Đức hi sinh.

Nhưng đạo đức truyền thống vốn khôn ngoan và công bằng. Truyền thống khôn ngoan vì đã khéo léo ca ngợi đức hi sinh của người phụ nữ bằng cách gọi tên bổn phận của họ là những thiên chức, bằng cách gợi lên ở người chồng, người con trong gia đình những tình cảm trân trọng và yêu thương, bằng cách vẽ lên hình ảnh người vợ, người mẹ thật đẹp đẽ trong tư tưởng hay văn hóa xã hội, bằng cách xây dựng những ngày lễ quan trọng để ngợi ca những đức tính, những con người này… Những điều ấy là những gì mà cuộc sống, mà xã hội hay gia đình bù đắp cho cảm xúc của người phụ nữ, động viên và thúc đẩy người phụ nữ rèn luyện và bồi đắp Đức hi sinh cho mình. Trong mô hình truyền thống hoàn chỉnh, mọi sự tương tác giữa người với người đều hết sức nhân văn và đẹp đẽ.

Truyền thống công bằng vì truyền thống cũng đòi hỏi ở người nam giới những sự hi sinh tương tự, nhưng được gọi tên bằng những ngôn từ khác đi, đó là sự cao thượng, sự che chở, sự tranh đấu, sự dựng xây, là trách nhiệm dòng tộc, trách nhiệm quốc gia xã tắc… Ẩn bên trong những giá trị đạo đức này vẫn là sự đánh đổi, đánh đổi giữa cái ngắn ngủi trong hiện tại để lấy cái bền vững ở tương lai, đánh đổi nhu cầu của một bộ phận để lấy cái ổn định của toàn thể.

Nhưng người nam giới đã được giáo dục nhiều hơn để hiểu ra bản chất và sự cần thiết của những đức tính ấy, nên có thể gọi tên những đức tính ấy bằng những ngôn từ cụ thể và chính xác hơn, thích hợp với từng bổn phận và trách nhiệm với từng đối tượng và sắc thái hơn.

Cao thượng là sự đánh đổi những lợi ích của bản thân để đạt được sự tồn tại cho một giá trị nào đó của cái chung, của tập thể. Che chở là sự hi sinh những nhu cầu của bản thân để thỏa mãn những nhu cầu cấp thiết và quan trọng hơn đối với những người khác. Tranh đấu là hi sinh sự an toàn của bản thân để đổi lấy những nền tảng thuận lợi cho xã hội. Dựng xây là sự đánh đổi những nguồn lực của hiện tại để đạt được những thành tựu lâu dài và bền vững trong tương lai.

Bởi thế, “Đức hi sinh” là đức tính cần thiết ở tất cả mọi người, cần được khơi gợi và bồi đắp ở tất cả mọi người. Và để quá trình này được thuận lợi, thì đã đến lúc để bất cứ ai cũng nên được hiểu, được nhìn nhận về nó một cách rõ ràng hơn, tường tận hơn. Như thế, bản thân mỗi người mới có thể tự mình bồi đắp cho mình và không bị những hiện tượng hay xu hướng nhất thời làm cho nản chí.

Đức hi sinh là một giá trị đạo đức, là sự khôn ngoan của tâm hồn. Và vì thế nó luôn mang lại những điều tốt đẹp cho con người, hay cho mối quan hệ giữa người với người. Đức hi sinh chỉ gây ra đau khổ khi người ta không hiểu đúng về nó, không cảm nhận được nó, hay không sử dụng nó đúng cách.

Từ trước đến giờ, con người chỉ đau khổ vì hi sinh cho những gì không xứng đáng để hi sinh, con người chỉ đau khổ vì hi sinh mà không cảm nhận được tình yêu thương và lẽ công bằng trong sự hi sinh đó. Từ trước đến giờ, con người chỉ đau khổ vì sự ngu dốt của mình mà thôi.

Việt Nam ta là một nước có nhiều nét văn hóa đặc sắc, song song đó là những truyền thống tốt đẹp đẹp được lưu truyền ngàn đời nay như lòng hiếu thảo, lòng biết ơn, tinh thần yêu nước sâu sắc, tinh thần đoàn kết dân tộc. Và đức hi sinh cũng là một trong những truyền thống tốt đẹp, được nhân dân ta trân trọng và luôn khuyên dạy con cháu về tấm lòng cam nguyện hi sinh cho gia đình, xã hội và đất nước như một bài học đạo đức hàng đầu.

Advertisement

Như vậy câu hỏi đầu tiên đặt ra: Đức hi sinh là gì? Trong phạm trù đạo đức và nhân phẩm, đức hi sinh là một thứ tình cảm nội tại trong mỗi con người, hết sức cao quý và đẹp đẽ, mà không phải con người nào cũng có đủ lòng tin, lòng bao dung để đạt được đức hi sinh ấy. Trong xã hội hiện tại, nhắc tới việc hi sinh ta thường nghĩ đến việc hi sinh cho gia đình, sau đó là cho tập thể và to lớn hơn ấy là hi sinh cho Tổ quốc mỗi khi Tổ quốc gọi tên. Đức hi sinh ấy là tấm lòng tình nguyện đánh đổi những lợi ích, những hạnh phúc riêng của cá nhân để cho người khác có được những điều tốt đẹp hơn, và người có đức hi sinh thường cảm thấy tự hào, vui vẻ vì những điều mình đã cho đi, bởi đó là những gì họ mong muốn, cam nguyện không đòi hỏi được nhận lại thứ gì. Đó chính là đức hi sinh cao đẹp, và đáng trân trọng đến chừng nào. Chúng ta cũng phải phân biệt được hi sinh ở đây là hi sinh những gì thuộc về sở hữu của chúng ta dựa trên tinh thần tự nguyện, chứ không phải là hi sinh lợi ích của người khác nhằm những mục đích không đứng đắn, mưu cầu cá nhân, đó là vụ lợi không phải là hi sinh.

Việt Nam ta trong suốt chiều dài lịch sử đã có rất nhiều tấm gương và bài học về đức hi sinh vĩ đại như thế. Đầu tiên, đó là Hồ Chủ tịch vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, Người đã dành trọn vẹn cả 79 mùa xuân của mình cho dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam, ngay cả trong Di chúc của Người cũng chỉ trăn trở một nỗi lo về Tổ quốc, về sự nghiệp cách mạng còn dang dở. Nhắc đến Bác người ta thường nhớ về một phong cách Hồ Chí Minh cao đẹp, một tấm lòng hi sinh cao cả, một chính trị gia, và hơn tất cả là một người công dân yêu nước sâu sắc, quyết dành tất cả cho sự độc lập của dân tộc. Trong chiến tranh, có những người con anh hùng bỏ lại sau lưng gia đình, quê hương lên đường tham gia chiến đấu mà không hẹn ngày trở về, tất cả luôn để trong tim một câu thề son sắt “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, Quang Dũng viết “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” trong bài thơ Tây Tiến, để chúng ta thấy được tinh thần hi sinh cao cả của thế hệ cha ông đi trước thật vĩ đại và lớn lao biết chừng nào. Mạng sống, máu thịt của mình quyết dành trọn cho Tổ quốc cho dân tộc, ôi thật đáng quý và kiêu hùng quá, người lính cộng sản! Đó là những con con người bước ra tiền tuyến chống giặc cứu nước, còn ở hậu phương cũng có biết bao người mẹ chờ con, tiễn con đi ra chiến trường mà chẳng thấy con trở về, nhạc sĩ Ngọc Sơn viết trong ca khúc Lòng Mẹ 2 rằng: “Mẹ già chờ con ngồi đếm lá rơi. Đếm bao nhiêu lá mà con chưa về.”, để thấy được nỗi đớn đau xót xa trong đáy lòng mỗi người mẹ. Đó chính là sự hi sinh thầm lặng của người phụ nữ Việt Nam trong những năm tháng đất nước còn chìm trong khói lửa chiến tranh. Có lần tôi nghe một bà mẹ Việt Nam anh hùng kể chuyện, bà bảo: “Thuở ấy, mẹ tiễn chồng ra chiến trận, rồi ông hi sinh, mẹ một mình nuôi 8 đứa con thơ, rồi khi lớn lên chúng nó cũng ra chiến trường hết. Mẹ xót xa lắm nhưng Tổ quốc đang cần, mẹ phải cho chúng đi để cứu Tổ quốc, thế rồi chúng nó cũng không về nữa,…”. Nghe kể mà thấy người phụ nữ Việt Nam sao anh hùng quá, sao lại có đức hi sinh to lớn đến vậy. Cho đến ngày hôm nay, chiến tranh đã đi qua, nhưng đức hi sinh của dân tộc Việt Nam chưa bao giờ thay đổi. Để canh giữ cho hòa bình của Tổ quốc, hằng ngày vẫn có những chiến sĩ bộ đội, công an, đặc biệt là những chiến sĩ vùng hải đảo, biên giới ngày đêm luân phiên thay ca trực, hi sinh sức khỏe, giấc ngủ, hi sinh thời gian bên gia đình để hoàn thành nhiệm vụ với Tổ quốc với nhân dân.

Trong gia đình, đức hi sinh vẫn thường hiện diện và ta có thể thấy rõ ràng nhất. Cha mẹ hi sinh thời gian nghỉ ngơi, giấc ngủ ngon thức trắng đêm chăm sóc con nhỏ, chỉ sợ con đau, con khóc. Cả cuộc đời cha mẹ chẳng lúc nào không hi sinh cho con cái, cái gì tốt nhất, đẹp nhất cũng nhường phần con, cha mẹ chẳng dành riêng cho mình cái gì. Suốt mấy mươi năm cuộc cuộc đời, cha mẹ tất bật với cơm áo gạo tiền, làm việc không dám ngơi nghỉ, chỉ để con có một tương lai bằng bạn bằng bè, có ai hỏi cha mẹ mệt không, họ đều trả lời tôi cảm thấy thật hạnh phúc vì được hi sinh cho con cái của mình. Thế đấy, phải làm cha mẹ rồi mới thấu hiểu lòng cha mẹ, mấy ai biết được sự hi sinh thầm lặng mà cao quý ấy. Vậy nên khiến cha mẹ khóc là một tội ác không thể tha thứ. Rồi lại kể đến những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, những người anh người chị quyết tâm nghỉ học đi làm kiếm tiền phụ giúp cha mẹ, nuôi những đứa em nhỏ dại, nhường cho em cơ hội học hành, hi vọng một ngày các em thành người có ích cho xã hội. Nhỏ hơn một chút đơn giản là sự nhường nhịn quà bánh cho nhau, dành cho nhau phần ngon phần ngọt giữa anh chị em trong nhà.

Chung quy sự hi sinh nào cũng là đau đớn là mất mát cả, nhưng được hi sinh đó là một sự may mắn biết nhường nào, bởi ít ra cuộc sống của chúng ta còn có ý nghĩa, còn có người để cho chúng ta hi sinh. Đôi khi hi sinh còn là niềm hạnh phúc và tự hào ví dụ như cha mẹ hi sinh cho con cái, đó là nghĩa vụ thiêng liêng và cao cả biết mấy. Vậy nên mỗi con người chúng ta đều được sống trong điều kiện đầy đủ, thì phải biết hi sinh, hi sinh cho gia đình cho người thân, ra xã hội thì phải biết hạ cái “tôi” cá nhân hi sinh vì lợi ích tập thể. Sẵn sàng hi sinh khi Tổ quốc cần đến mà không được trốn tránh, bởi đó là phận sự chính đáng và thiêng liêng của một công dân có lòng yêu nước.

Hi sinh là một đức tính đẹp và là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam ta. Thế nên, ngay từ bây giờ, chúng ta hãy tập cho chính bản thân mình đức tính hi sinh cao quý ấy, để thêm gắn kết tình tình cảm giữa gia đình với nhau, với tập thể, xã hội và đất nước. Người có đức tính hi sinh ắt hẳn sẽ được mọi người yêu quý và dễ thành công hơn trong tương lai, tôi tin là thế.

Đọc những bài báo gần đây chúng ta dễ dàng tìm thấy những mẩu thông tin về những người mặc dù mình đang ở trong hoàn cảnh rất khó khăn, ngặt nghèo hay trong hoàn cảnh ảnh hưởng đến tính mạng của mình, họ vẫn sẵn sàng nghĩ cách để cứu giúp những người khác thoát khỏi cái chết. Họ hi sinh bản thân để cứu giúp con người. Những con người này thật đáng trân trọng biết bao. Vậy ta hiểu hi sinh có ý nghĩa như thế nào đối với chúng ta?

Hi sinh có nghĩa là gì? Hi sinh có ý nghĩa là những suy nghĩ, hành động vì người khác bất chấp tính mạng của mình. Người có tấm lòng biết hi sinh bản thân mình cho người là người có tấm lòng nhân ái, đặt quyền lợi chung lên trên quyền lợi cá nhân. Vậy thì tại sao chúng ta phải có đức tính hi sinh vì người khác ? Bởi vì, nó thể hiện phẩm chất đạo đức cao đẹp cần có ở mỗi chúng ta. Người có đức tính hi sinh luôn là người được mọi người yêu mến, tin cậy, quý trọng. Không chỉ vậy, người có đức tính hi sinh còn thể hiện được sự dũng cảm của bản thân mình. Xem trên báo chí gần đây, chắc ai cũng đã biết qua một tấm gương hi sinh bản thân mình để cứu giúp người khác đó chính là anh Trần Hữu Hiệp. Trong vụ chìm tàu thảm khốc tại vùng biển Cần Giờ, anh Trần Hữu Hiệp đã làm rung động bao trái tim đồng loại với nghĩa cử cao đẹp: quên mình, nhường mạng sống cho người khác. Lúc đối đầu với cơn sóng dữ nguy hiểm nhất, anh đã dũng cảm cởi chiếc áo phao trên người, trao cho một người phụ nữ đang hấp hối giữa dòng nước. Và khi nhường sự sống cho người phụ nữ kia, anh đã không một giây mảy may đắn đo, suy nghĩ để rồi chính anh kiệt sức, bị cuốn trôi giữa dòng nước xoáy.

Hay câu chuyện về em Nguyễn Văn Nam (học sinh lớp 12T7, trường THPT Đô Lương 1, Nghệ An) khi đi ngang qua sông Lam thấy nhóm học sinh chới với giữa dòng nước, nam sinh này đã không hề đắn đo mà nhanh chóng lao xuống cứu người. Sau khi đã cứu được bốn em vào bờ, Nam thấy vẫn còn một em bị ngạt nước, cậu bạn đã dùng hết sức lực giúp em nhỏ vào bờ. Nhưng đáng tiếc rằng, chàng trai trẻ đã bị kiệt sức rồi dần bị nước cuốn trôi. Qua những câu chuyện ngắn trên, chúng ta thấy rằng tuy tuổi đời của những chàng trai này khá trẻ nhưng những tấm gương hi sinh này đã khiến cho nhiều người phải thán phục. Sự hi sinh của họ chính là tấm gương sáng chói muôn đời cho thế hệ sau học tập.

Bên cạnh đó, nhắc đến sự hi sinh thì chúng ta không thể không nhắc đến sự hi sinh cao cả, thiêng liêng của cha mẹ dành cho chúng ta. Họ đã mang nặng, đẻ đau chín tháng mười ngày đầy vất vả. Sinh con ra rồi lại nuôi nấng, dạy bảo nên người. Quả thật sự hi sinh ấy không gì có thể so sánh được. Hay như sự hi sinh của các chiến sĩ cha anh đi trước, họ đã hi sinh một cách oanh liệt, hào hùng chỉ vì mong muốn đem lại nền hoà bình, tự do cho đất nước. Nói tới hi sinh ta không thể không nhắc đến vị cha già Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bác đã hi sinh cả một đời người để đi tìm con đường cứu nước giúp đất nước chúng ta thoát khỏi vòng nô lệ. Bác đã giúp dân tộc Việt Nam chúng ta được độc lập, tự do và hạnh phúc. Tấm gương hi sinh cuộc đời mình cho đất nước vẫn sẽ sáng chói đến tận ngàn đời.

Tuy nhiên, trong cuộc sống của chúng ta vẫn còn rất nhiều con người sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân mình mà thờ ơ với những con người xung quanh đặc biệt là những con người nghèo khó, đang cần đến sự giúp đỡ. Những kẻ sống ích kỷ này luôn luôn nhẫn tâm trước sự sống chết của người khác.

Tóm lại, đức tính hi sinh là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta từ bao đời nay. Riêng bản thân em, em sẽ luôn rèn luyện, trau dồi nhân cách, phẩm giá của mình đặc biệt là đức tính hi sinh để góp phần làm cho cuộc sống của mình ngày càng có ý nghĩa hơn.

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Tết Nguyên Đán 3 Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Mẫu Lớp 8 Hay Nhất trên website Ysdh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!