Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 9: Tổng Hợp Những Mở Bài Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy (50 Mẫu) Mở Bài Ánh Trăng Của Nguyễn Duy # Top 18 Xem Nhiều | Ysdh.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 9: Tổng Hợp Những Mở Bài Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy (50 Mẫu) Mở Bài Ánh Trăng Của Nguyễn Duy # Top 18 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 9: Tổng Hợp Những Mở Bài Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy (50 Mẫu) Mở Bài Ánh Trăng Của Nguyễn Duy được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Ysdh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Tổng hợp mở bài Ánh trăng của Nguyễn Duy hay nhất

Mở bài Ánh trăng hay (2 mẫu)

Mở bài cảm nhận bài thơ Ánh trăng (5 mẫu)

Mở bài phân tích ý nghĩa nhan đề bài Ánh trăng (4 mẫu)

Mở bài phân tích Ánh trăng của Nguyễn Duy (12 mẫu)

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng (6 mẫu)

Mở bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng (4 mẫu)

Mở bài cảm nhận khổ cuối bài thơ Ánh trăng (4 mẫu)

Mở bài suy nghĩ về vầng trăng trong bài thơ Ánh trăng (4 mẫu)

Mở bài cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng (6 mẫu)

Mở bài phân tích tâm trạng của người lính sau chiến tranh trong bài thơ Ánh trăng (3 mẫu)

Mở bài Ánh trăng hay Mở bài 1 Mở bài 2

Nguyễn Duy là một tác giả có hồn thơ nhẹ nhàng, gần gũi , thơ ông với ngôn từ giản dị, tự nhiên nhưng lại chất chứa nhiều nỗi suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời, về con người. Hầu hết, những hình tượng nghệ thuật trong thơ ông đều rất chân quê và đầy gợi cảm, đó là bóng mẹ, là con sông quê hương, là cây tre người Việt hay hơi ấm từ ổ rơm,….và không thể thiếu được vầng trăng thiên nhiên. Ánh trăng soi rọi con đường, soi rọi cánh đồng quê, ánh trăng soi rọi bước đường chiến đấu và soi rọi cả những cõi sâu nhất của tâm hồn con người. Bài thơ ” Ánh trăng” là một bài thơ viết về trăng vô cùng độc đáo, tác phẩm đã đi vào trái tim người đọc qua bao thế hệ.

Mở bài cảm nhận bài thơ Ánh trăng Mở bài cảm nhận Ánh trăng –  Mẫu 1

Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông là một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ yêu nước thời kháng chiến chống mỹ. Sau giải phóng, ông tiếp tục bền bỉ sáng tác sau ngày đất nước giải phóng. Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm vì thế cứ ngấm vào người đọc và trong cái đà ngấm ấy có lúc khiến người ta phải giật mình suy nghĩ. Bài thơ Ánh trăng thể hiện sâu sắc đặc điểm nghệ thuật ấy của ông.

Mở bài cảm nhận Ánh trăng – Mẫu 2

Trăng trong thư vốn là một vẻ đẹp trong trẻo tròn đầy, đó là cái gì lãng mạn nhất trong cuộc đời, nhất là trong hai trường hợp: khi con người ta còn ở tuổi ấu thơ hoặc rơi vào những vùng tâm sự cần phải chia sẻ, giãi bày. Ánh trăng của Nguyễn Duy là cái nhìn xuyên suốt cả hai thời điểm vừa nêu. Chỉ có điều, đây không phải là một cái nhìn xuôi, bình lặng từ trước đến sau, mà là cách nhìn ngược: từ hôm nay mà nhìn lại để thấy có cái hôm qua trong cái hôm nay. Nó không xuôi chiều, phẳng lặng nữa. Tính chất tâm sự, đời tư có ý nghĩa như một hối hận, ăn năn tạo nên con sóng ngầm đằng sau một câu chuyện kể.

Mở bài cảm nhận Ánh trăng – Mẫu 3

Như là một nỗi nhớ, một kỉ niệm đã từ lâu lại hiện về trong kí ức của nhà thơ Nguyễn Duy, Ánh trăng có phải là dòng cảm xúc từ quá khứ đến thực tại này chăng? Có cái gì đó như một nỗi ám ảnh đột ngột hiện về khiến nhà thơ giật mình. Những ý nghĩa sâu kín, Ánh trăng là nỗi niềm rất rộng của Nguyễn Duy mà ta phải đi tìm.

Mở bài cảm nhận Ánh trăng – Mẫu 4

Tình cảm là thứ quan trọng nhất đối với mỗi con người. Nó như dòng nước ngọt ngào chảy dọc trong ống nhựa tắm mát tâm hồn ta, tưới nước cho cái hạt giống tinh thần bên trong ta nảy nở. Thiếu đi cái ngọt ngào của tình cảm, ta sẽ chỉ như cái ống nước rỗng ruột, khô cứng, tâm hồn ta sẽ chẳng khác gì hoang mạc cằn khô nứt nẻ. Tình cảm trong quá khứ gian khổ khó khăn lại càng đáng nhớ hơn, nó thể hiện sự gắn bó, yêu thương không điều kiện, đồng cam cộng khổ vượt qua những chông gai đường đời. Thế nhưng trong xã hội hiện đại ngày nay vẫn có một số người vì mải mê chạy theo những giá trị vật chất mà bỏ quên mất tình cảm yêu thương của một thời đã qua, hờ hững với những gì thuộc về quá khứ.

Mở bài cảm nhận Ánh trăng – Mẫu 5

Nguyễn Duy là một nhà thơ gắn bó với cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Thơ Nguyễn Duy dung dị, hồn nhiên, trong sáng và mang màu sắc triết lí. “Ánh trăng” là một trong những bài thơ đặc sắc của Nguyễn Duy. Bài thơ viết về câu chuyện của một người lính đã lãng quên quá khứ rồi thức tỉnh bất ngờ khi bắt gặp lại ánh trăng.

Mở bài phân tích ý nghĩa nhan đề bài Ánh trăng Mở bài nhan đề bài Ánh trăng – Mẫu 1

“Ánh trăng” chính là linh hồn của toàn bài thơ. Nó không chỉ là người bạn tri kỷ của người lính vô tình mà còn là chiếc gương soi mặt trái của một con người. Ánh trăng luôn luôn tròn đầy, luôn luôn dõi theo từng bước đường đời của con người mà con người lại nỡ lòng quên đi ánh trăng tình nghĩa. Ánh trăng còn là quê hương gần gũi, vị tha, sẵn sàng tha thứ lỗi lầm một khi con người biết ăn năn, nhìn nhận ra lỗi lầm của mình.

Mở bài nhan đề bài Ánh trăng – Mẫu 2

Trăng là nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân xưa. Chúng ta từng bắt gặp ánh trăng sáng soi rọi tình yêu, nỗi nhớ quê hương trong “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch hay ánh trăng huyền ảo, người bạn tri âm với người tù cộng sản qua bài “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh. Vẫn lựa chọn đề tài ánh trăng ngỡ như đã rất quen thuộc đó, nhà văn Nguyễn Duy đã sáng tạo và làm phong phú hơn cho vẻ đẹp và ý nghĩa của vầng trăng.

Mở bài nhan đề bài Ánh trăng – Mẫu 3

Trong thi ca, vầng trăng được xem là biểu tượng của cái đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, vũ trụ. Nó là khát vọng tình yêu, hòa bình và cuộc sống trường cửu. Nguyễn Duy đã lấy biểu tượng đẹp đẽ ấy làm nhan đề cho bài thơ là hoàn toàn có dụng ý nghệ thuật đặc sắc, đem đến cho người đọc những cảm xúc mới mẻ, thật đáng trân trọng.

Mở bài nhan đề bài Ánh trăng – Mẫu 4

Ánh trăng không chỉ là hình ảnh của đất trời thiên nhiên. Ánh sáng ấy có thể len lỏi vào những nơi khuất lấp trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những điều sai trái, hướng con người ta đến với những giá trị đích thực của cuộc sống.

Mở bài phân tích Ánh trăng của Nguyễn Duy Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 1

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã có những tác phẩm hay, để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc. Một trong những bài thơ tiêu biểu là “Ánh trăng”, bài thơ được sáng tác năm 1978. Bài thơ như một lời nhắc nhở người đọc thái độ sống ân nghĩa thủy chung qua một hình thức nghệ thuật độc đáo, đặc sắc.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 2

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đau thương và oanh liệt của dân tộc. Bài thơ Ánh trăng được viết tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 3

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nhận định “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, nhận định đó trở nên đúng đắn và xác thực hơn bao giờ hết. Qua mạch cảm xúc dâng trào mãnh liệt, ta cảm nhận được một ngòi bút sâu sắc, một trái tim tinh tế rung động, trước những đổi thay nhỏ bé nhất, và cả một khát khao ước vọng truyền cho mọi người lẽ sống, cách sống trọn vẹn, tình nghĩa.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu  4

Trăng – hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 5

Nhà văn Nguyễn Tuân có lần từng nói: “Thơ là mở ra một cái gì mà trước câu thơ trước bài thơ ấy dường như vẫn còn bị phong kín” vì vậy mỗi một sáng tác thơ ca đều phải mở ra một điều gì đấy mới mẻ về tư tưởng về nội dung về nghệ thuật trong tâm trí của người đọc. Nếu Lí Bạch đã từng nâng chén cùng với trăng sáng trên cao để thấm thía nỗi cô đơn mình với bóng là ba, nếu Nguyễn Du đã để vầng trăng là nhân chứng cho mối lương duyên của Thúy Kiều – Kim Trọng, thì chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng coi trăng như một người bạn tri kỷ, thân thiết “Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cũng viết về vầng trăng, hình tượng vốn bấy lâu đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, nhưng bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn khơi gợi trong tâm hồn của mỗi độc giả những cảm xúc mới mẻ, sâu sắc và nhiều ý nghĩa.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 6

Là một trong những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nguyễn Duy được biết đến với nhiều bài thơ hay, nhẹ nhàng, giàu cảm xúc chẳng hạn như Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam,… Một trong những bài thơ được nhiều người chú ý đó chính là bài thơ Ánh trăng. Bài thơ đã thể hiện được sự tài hoa của ông và thể hiện rõ chất suy tư trong thơ của Nguyễn Duy.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 7

Nguyễn Duy thuộc thế hệ làm thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Duy đã nổi tiếng với bài thơ “Tre Việt Nam”. Bài “Hơi ấm ổ rơm” của anh đã từng đoạt giải thưởng báo Văn Nghệ. Hiện nay. Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác. Anh viết đều và khỏe. “Ánh trăng” là một trong những bài thơ của anh được nhiều người ưa thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ mới lạ.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 8

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sau chiến tranh, Nguyễn Duy tiếp tục làm thơ và thơ ông ngày càng trở nên đậm đà với một phong cách, giọng điệu “quen thuộc mà không nhàm chán”.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 9

Nguyễn Duy nhà thơ có nhiều sáng tác gần gũi, mộc mạc. Bài thơ “Ánh trăng” của tác giả được sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh bài thơ mượn những hình ảnh vô tri vô giác đánh thức và làm lay động cảm xúc của con người.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 10

Trong thơ ca, trăng vốn là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các thi nhân. Ta biết đến ánh trăng làm bạn với Bác trong ngục; ta biết đến một vầng trăng huyền bí của Hàn Mặc Tử. Và ta còn phải nhắc đến trăng trong tác phẩm Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy. Vầng trăng tự nó như một thứ thuốc thử, một lời nhắc nhở đối với mỗi con người về cách sống, cách ứng xử trong cuộc đời.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 11

Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy ra đời năm 1978, năm đất nước đã bước vào công cuộc kiến thiết xây dựng đất nước. Cuộc chiến tranh đã đi qua nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng trong tâm hồn nhiều thế hệ, như một quy luật cuộc sống sau chiến tranh với những bộn bề lo toan xây dựng đã làm người ta quên đi quá khứ, quên đi ân nghĩa của bao người. “Ánh trăng” ra đời trong dòng cảm hứng sám hối, tự truyện của văn học sau những năm 1978.

Mở bài phân tích bài Ánh trăng – Mẫu 12

Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 và được đưa vào tập thơ “Ánh trăng. Tập này đã được tặng giải A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984. Thông qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa.

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu bài Ánh Trăng Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu – Mẫu 1

Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ,người đọc biết đến ông qua bài thơ Cây tre Việt Nam.Thời bình ông đổi mới sáng tạo nghệ thuật đi tìm triết lí lối sống của con và Ánh Trăng là một minh chứng sáng tác. Đặc biệt 2 khổ thơ đầu của bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu – Mẫu 2

Trước kia, con người sống hòa mình vào thiên nhiên, sống hồn nhiên, vui vẻ. Và vầng trăng sáng trên bầu trời đêm khi ấy giống như người bạn thân thiết với con người vậy. Điều đó, đã được thể hiện qua hai khổ thơ đầu bài thơ ánh trăng.

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu – Mẫu 3

Hẳn trong tâm trí chúng ta chưa thể quên những lời thơ mộc mạc, giản dị mà chan chứa tình cảm trong bài thơ Tre Việt Nam của tác giả. Nếu Tre Việt Nam tựa như một khúc đồng dao ngân nga trong tâm hồn thì bước vào thế giới của ánh trăng, ta lại gặp những lời thơ chân thành, ẩn chứa niềm băn khoăn, day dứt

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu – Mẫu 4

Nguyễn Duy là nhà thơ trường thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Sáng tác của ông thấm đẫm phong vị của ca dao, dân ca nhưng nhiều bài văn có cái ngang tàng mà trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm. Thơ ông vì thế cứ đi sâu vào tâm hồn người đọc một cách tự nhiên và có lúc khiến người ta phải giật mình. Ánh trăng là một thi phẩm như thế. Nó tựa như một câu chuyện nhỏ có các sự kiện diễn biến theo trình tự thời gian. Lời thơ dung dị như lời kể những chất thơ vẫn đong đầy và ẩn chứa những triết lí sâu sắc về con người, cuộc đời.

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu – Mẫu 5

Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những sáng tác của ông mang đậm những triết lý, suy tư về cuộc đời và cuộc sống. Ánh trăng là một trong những sáng tác nổi bật cho đời thơ Nguyễn Duy, là lời gửi gắm đến mọi người về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính.

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu – Mẫu 6

“Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy,… tác giả, bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm tác giả cứ “rưng rưng” nước mắt.

Mở bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh Trăng Mở bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối – Mẫu 1 Mở bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối – Mẫu 2

Trăng là một đề tài quen thuộc trong thơ ca. Trăng như một biểu tượng thơ mộng gắn với tâm hồn thi sĩ. Nhưng có một nhà thơ cũng viết về trăng, không chỉ tìm thấy ở đấy cái thơ mộng, mà còn gửi gắm những nỗi niềm tâm sự mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là trường hợp bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.

Mở bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối – Mẫu 3 Mở bài cảm nhận 2 khổ thơ cuối – Mẫu 4

Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỷ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc – dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự xúc động cảm động chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng.

Mở bài cảm nhận khổ cuối bài thơ Ánh trăng Mở bài cảm nhận khổ cuối – Mẫu 1

Ánh trăng của Nguyễn Duy là một trong những bài thơ hay để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Nội dung bài thơ nói về hình ảnh ánh trăng và tình nghĩ của con người. Con người vốn quen thuộc với ánh trăng, coi ánh trăng là bạn, là người tri kỉ và ngỡ rằng sẽ không thể nào quên được. Nhưng rồi cuộc sống thay đổi, người ta cũng thay đổi theo và rồi ánh trăng trong phút chốc đã đi vào quên lãng. Ánh điện, cửa nhà sáng choang khiến người ta không còn cần tới ánh sáng của ánh trăng nữa. Khổ thơ cuối của bài thơ chứa đựng một triết lí sâu xa, nó khiến cho người đọc nhớ về lẽ sống ân nghĩa, thủy chung

Mở bài cảm nhận khổ cuối – Mẫu 2

Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông dung dị, hồn nhiên mà thiết tha, sâu lắng, ít nhiều mang màu sắc triết lí. “Ánh trăng” là bài thơ tiêu biểu của ông. Đến với khổ thơ cuối bài thơ là những suy nghĩ của nhà thơ về vầng trăng.

Mở bài cảm nhận khổ cuối – Mẫu 3 Mở bài cảm nhận khổ cuối – Mẫu 4

Ánh trăng đi vào hồn thơ của biết bao thi nhân thế giới, và ở văn học Việt Nam, trăng cũng đã chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác. Đó là ánh trăng chiến đấu nơi rừng xa trong thơ Chính Hữu, là ánh trăng rằm ngời sáng dịu dàng trong thơ Tản Đà, là ánh trăng đẹp tri âm tri kỉ trong các thi phẩm của Hồ Chí Minh. Nguyễn Duy cũng mang đến cho thơ ca hiện đại Việt Nam một vầng trăng nghĩa tình, thủy chung qua bài “Ánh trăng”. Kể về ân tình thủy chung của vầng trăng và sự vô tình của lòng người, khổ cuối bài thơ được coi là khổ thơ chứa đựng nhiều suy tư, chiêm nghiệm nhất bài thơ.

Mở bài suy nghĩ về vầng trăng trong bài thơ Ánh trăng Mở bài suy nghĩ về vầng trăng – Mẫu 1

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trước cuộc chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông có giàu chất triết lý, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư. Bài thơ Ánh trăng được viết năm 1978, ba năm khi chiến tranh kết thúc. Thông qua cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa vầng trăng và con người, bài thơ là lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước, bình dị, hiền hậu, từ đó, gợi nhắc người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. Vầng trăng trong bài thơ là một biểu tượng đa nghĩa.

Advertisement

Mở bài suy nghĩ về vầng trăng – Mẫu 2

Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước kiên cường, gian khổ của dân tộc. Nếu trước thời kỳ đổi mới, ông tập trung viết về chiến tranh với khuynh hướng sử thi thì sau đổi mới ông táo bạo và mạnh mẽ khi dám phơi bày những bất cập của xã hội đương thời. Và bài thơ “Ánh trăng”, ra đời vào năm 1978 là một trong số những sáng tác tiêu biểu cho thơ của Nguyễn Duy sau đổi mới. Đọc bài thơ, người đọc sẽ bị ám ảnh khôn nguôi bởi hình ảnh của vầng trăng – một hình ảnh giàu ý nghĩa và từ đó gợi lên nhiều suy ngẫm.

Mở bài suy nghĩ về vầng trăng – Mẫu 3

Trăng – Hình ảnh giản dị, quen thuộc đã chắp cánh cho những hồn thơ bay bổng để rồi những tác phẩm tuyệt vời được ra đời. Nếu Chính Hữu đã treo lên một bức tranh tuyệt đẹp, lãng mạn qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo” thì “Ánh trăng” của Nguyễn Duy lại mang một tính chất triết lý thầm kín. Đó là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”. Đối với nhà thơ đây là vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng dửng dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh. Nó như hồi chuông gióng lên, đánh thức tâm hồn u tối trong mỗi con người.

Mở bài suy nghĩ về vầng trăng – Mẫu 4

Ánh trăng được viết vào năm 1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau khi đất nước thống nhất được ba năm. Tác phẩm là những suy ngẫm của tác giả về thái độ, lối sống của con người trước quá khứ gian lao, tình nghĩa. Và những suy ngẫm đó được thể hiện qua hình ảnh vầng trăng giàu giá trị ý nghĩa.

Mở bài cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng Mở bài cảm nhận 4 khổ thơ cuối Ánh trăng – Mẫu 1

Hình ảnh vầng trăng từ xưa đến nay luôn gần gũi, gắn bó với con người Việt Nam. Trăng rằm tháng tám, trăng tròn vành vạnh mỗi ngày rằm… ánh trăng chiếu sáng từ nhà ra ngõ… Cũng chính bởi sự gần gũi như vậy mà đây là hình ảnh đi vào những tác phẩm văn học của các thi sĩ như một nguồn cảm hứng đặc biệt. Nguyễn Duy cũng tìm thấy nguồn cảm hứng thi ca qua hình ảnh vầng trăng với một thi phẩm đặc sắc “Ánh trăng”. Bài thơ là thông điệp, triết lí mà tác giả muốn gửi gắm. Điều này được thể hiện rõ nhất qua bốn khổ thơ cuối bài.

Mở bài cảm nhận 4 khổ thơ cuối Ánh trăng – Mẫu 2

Cũng như bao nhà thơ trẻ khác trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nguyễn Duy đã từng trải qua nhiều gian khổ, từng chứng kiến biết bao sự hi sinh, mất mát lớn lao của dân tộc, cùng gắn bó với thiên nhiên núi rừng nghĩa tình. Nhưng khi đã ra khỏi thời bom đạn ác liệt, được sống trong hòa bình với nhiều tiện nghi hiện đại, không phải ai cũng nhớ những gian nan, những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” đã ghi lại một thoáng, một lần giật mình trước cái điều vô tình dễ gặp ấy, đặc biệt là bốn khổ cuối bài thơ.

Mở bài cảm nhận 4 khổ thơ cuối Ánh trăng – Mẫu 3

Trăng vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca truyền thống để giãi bày tâm sự, vẻ đẹp thánh thiện, sự chiêm nghiệm… và trong mỗi thể loại thơ trăng lại mang một nét đẹp riêng. Đặc biệt là trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Đến với bốn khổ thơ cuối, người đọc sẽ cảm nhận được thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm.

Mở bài cảm nhận 4 khổ thơ cuối Ánh trăng – Mẫu 4

Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác như một lời tự nhắc nhở nhớ về những năm tháng gian lao đã qua của người lính. Đặc biệt, bốn khổ cuối của bài thơ đã làm rõ cảm xúc của nhân vật trữ tình khi gặp lại cái vầng trăng tình nghĩa.

Mở bài cảm nhận 4 khổ thơ cuối Ánh trăng – Mẫu 5

Nguyễn Duy là thơ tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác. Trong số các tác phẩm của ông, chắc hẳn ai cũng đều biết đến bài thơ “Ánh trăng” được sáng tác năm 1978. Đến với bốn khổ thơ cuối, người đọc sẽ cảm nhận được tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đối mặt với vầng trăng của hiện tại.

Mở bài cảm nhận 4 khổ thơ cuối Ánh trăng – Mẫu 6

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bước ra từ cuộc chiến, hồn thơ Nguyễn Duy lại đau đáu, trăn trở với những miền kí ức xa xưa và ân nghĩa trong kháng chiến thuở nào. Bài thơ “Ánh trăng” thể hiện một phần tâm sự như thế của nhà thơ. Đoạn thơ sau đây thể hiện rất rõ điều đó.

Mở bài phân tích tâm trạng của người lính sau chiến tranh trong bài thơ Ánh trăng Mở bài phân tích tâm trạng của người lính sau chiến tranh – Mẫu 1

Cuộc kháng chiến đã qua đi, người lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc sống hàng ngày. Tưởng như sự bận rộn hôm nay sẽ khiến người ta quên lãng quá khứ. Nhưng có một lúc nào đó trong đời thường những kỷ niệm chiến tranh lại như những thước phim quay chậm hiện về. Nguyễn Duy gửi tới bạn đọc thi phẩm “Ánh trăng” cũng chính là gửi tới bạn đọc thông điệp: Không nên sống vô tình, phải biết thủy chung nghĩa tình cùng quá khứ.

Mở bài phân tích tâm trạng của người lính sau chiến tranh – Mẫu 2

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Một trong những sáng tiêu biểu của ông là bài thơ “Ánh trăng”. Qua bài thơ này, tác giả đã thể hiện được tâm trạng của người lính sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, trở về với thành phố.

Mở bài phân tích tâm trạng của người lính sau chiến tranh – Mẫu 3

Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác sau năm 1978. Qua bài thơ, Nguyễn Duy đã diễn tả được dòng tâm trạng của người lính sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Văn Mẫu Lớp 9: Cảm Nhận 4 Khổ Thơ Cuối Bài Thơ Ánh Trăng 2 Dàn Ý &Amp; 6 Bài Văn Mẫu Lớp 9

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm

Nêu giới hạn đoạn trích

II. Thân bầi

1. Khái quát chung

Hoàn cảnh sáng tác.

Nội dung 4 khổ cuối.

2. Phân tích

a. Hình ảnh vầng trăng trong hiện tại:

Trên thực tế nhà thơ đã hoàn toàn thay đổi: Vầng trăng đi qua ngõ /Như người dưng qua đường – – Tác giả đã lí giải vì anh ta đã thay đổi hoàn cảnh sống. Từ hồi về thành phố Quen ánh điện, cửa gương

b. Gặp lại vầng trăng

Vội bật tung cửa sổ.

– Tác giả sử dụng 3 động từ: vội, bật, tung đặt liền nhau nhằm diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương hối hả của tác giả để tìm nguồn ánh sáng.

– Từ đột ngột diễn tả vầng trăng tròn bỗng nhiên hiện ra tình cờ mà tự nhiên vằng vặc giữa trời chiếu vào căn phòng tói om.

c. Cảm xúc suy nghĩ của tác giả

– Cử chỉ: Ngửa mặt lên nhìn trời

– Thái độ: Có cái gì dưng dưng

– Tư thế tập trung chú ý, mặt đối mặt nhìn trực tiếp với thái độ dưng dưng cảm xúc thiết tha thành kính, tâm trạng xúc động, cảm động trong lòng tác giảkhi gặp lại vầng trăng.

– Vầng trăng gợi nhớ cho anh quá khứ. Đó là những kỉ niệmcủa những năm tháng gian lao. Hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. như là đồng là bể như là sông là rừng

– Trăng cứ tròn vành vạnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, nguyên vẹn và tràn đầy thủy chung, nhân hậu.

– Đó là thái độ nhắc nhở nhà thơ, là sự trách mọc trong im lặng.

– Nhà thơ giật mình. – Nhà thơ thấy giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình bạc bẽo, sự vội vàng trong cách sống, cái giật mình của sự ăn năn tự trách mình, tự thấy mình phải thay đổi.

– Con người không được quên quá khứ, phản bội lại quá khứ và thiên nhiên.Hãy trân trọng những quá khứ tốt đẹp.

3. Đánh giá chung

* Nghệ thuật.

Bài thơ như một câu chuyện riêng có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình.

Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ 5 chữ.

Nhịp thơ khi thì tự nhiên nhẹ nhàng theo lối kể, khi thì ngân nga thiết tha cảm xúc lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư.

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Duy, bài thơ Ánh trăng.

Khái quát về nội dung chính của bốn khổ thơ cuối.

II. Thân bài

1. Khái quát chung

Đôi nét về hoàn cảnh sáng tác.

2. Phân tích bốn khổ thơ cuối

a. Hình ảnh vầng trăng trong hiện tại

Trên thực tế nhà thơ đã hoàn toàn thay đổi: “Vầng trăng đi qua ngõ/như người dưng qua đường”.

Tác giả đã lý giải lí do anh ta đã thay đổi: “Từ hồi về thành phố/quen ánh điện, cửa gương”

b. Khi gặp lại vầng trăng

“Thình lình đèn điện tắt/phòng buyn đinh tối om/vội bật tung cửa sổ”: tình huống bất ngờ.

Tác giả sử dụng 3 động từ: “vội, bật, tung” đặt liền nhau nhằm diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương hối hả của tác giả để tìm nguồn ánh sáng.

Từ “đột ngột” diễn tả vầng trăng tròn bỗng nhiên hiện ra tình cờ mà tự nhiên vằng vặc giữa trời chiếu vào căn phòng tối om.

c. Cảm xúc suy nghĩ của tác giả

Cử chỉ: Ngửa mặt lên nhìn trời

Thái độ: có cái gì dưng dưng

Vầng trăng gợi nhớ cho anh quá khứ. Đó là những kỉ niệm của những năm tháng gian lao. Hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu: “như là đồng là bể/như là sông là rừng”.

“Trăng cứ tròn vành vạnh” tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, nguyên vẹn và tràn đầy thủy chung, nhân hậu.

“ánh trăng im phăng phắc”: Đó là thái độ nhắc nhở nhà thơ, là sự trách móc trong im lặng.

“đủ cho ta giật mình”: nhà thơ giật mình. Nhà thơ thấy giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình bạc bẽo, sự vội vàng trong cách sống, cái giật mình của sự ăn năn tự trách mình, tự thấy mình phải thay đổi.

Con người không được quên quá khứ, phản bội lại quá khứ và thiên nhiên. Hãy trân trọng những quá khứ tốt đẹp.

3. Nghệ thuật 

Bài thơ như một câu chuyện riêng có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình.

Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ.

Nhịp thơ khi thì tự nhiên nhẹ nhàng theo lối kể, khi thì ngân nga thiết tha cảm xúc lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư.

III. Kết bài

Khẳng định lại ý nghĩa của khổ thơ.

Hình ảnh vầng trăng từ xưa đến nay luôn gần gũi, gắn bó với con người Việt Nam. Trăng rằm tháng tám, trăng tròn vành vạnh mỗi ngày rằm… ánh trăng chiếu sáng từ nhà ra ngõ… Cũng chính bởi sự gần gũi như vậy mà đây là hình ảnh đi vào những tác phẩm văn học của các thi sĩ như một nguồn cảm hứng đặc biệt. Nguyễn Duy cũng tìm thấy nguồn cảm hứng thi ca qua hình ảnh vầng trăng với một thi phẩm đặc sắc “Ánh trăng”. Bài thơ là thông điệp, triết lí mà tác giả muốn gửi gắm. Điều này được thể hiện rõ nhất qua bốn khổ thơ cuối bài.

Nếu ở khổ thơ thứ nhất, vầng trăng nghĩa tình trọn vẹn với quá khứ thủy chung, gắn bó cùng con người thì đến khổ thơ thứ hai, vầng trăng ở hiện tại đã làm thay đổi mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình:

Khi đất nước hòa bình, khi hoàn cảnh sống của con người thay đổi, đó là lúc suy nghĩ của con người cũng thay đổi. Khi được sống hòa mình với ánh điện, cửa gương, với những tiện nghi đủ đầy, xa rời với thiên nhiên, vầng trăng lúc này như người dưng qua đường, xa lạ không quen biết. Vầng trăng xưa kia đã trở thành dĩ vãng, đã trở thành những hoài niệm trôi vào quên lãng của con người. Vầng trăng vẫn thế, vẫn vẹn nguyên nghĩa tình, không thay đổi nhưng con người giờ đây đã đổi thay. Con người đã dửng dưng, lạnh nhạt đến vô tình với quá khứ nghĩa tình.

Mạch cảm xúc của nhân vật thay đổi khi xuất hiện một tình huống bất ngờ:

Một hoàn cảnh bất ngờ, con người khẩn trương, vội vàng bật tung cửa sổ. Người và trăng gặp gỡ nhau. Và mạch cảm xúc tiếp tục được thể hiện ở những câu thơ tiếp theo:

Mặt đối mặt, ở đây ta hiểu mặt chính là mặt trăng và mặt người. Cả hai cùng đối diện với nhau. Con người lúc này có cảm xúc rưng rưng, như tất cả quá khứ ùa về. Đó là sự thức tỉnh sau những quên lãng của quá khứ nghĩa tình. Đối diện với vầng trăng, con người nhận ra sự thờ ơ, vô cảm của mình bấy lâu nay, tất cả quá khứ chợt ùa về trong xúc cảm rất đỗi thân thương. Vầng trăng vẫn ở đây, vẫn vẹn nguyên:

Vầng trăng vẫn như vậy nhưng “im phăng phắc” đủ khiến cho những sai lầm, những sự vô cảm của con người phải thức tỉnh, đủ để khiến con người ta giật mình. Đó là sự thức tỉnh đúng lúc, thức tỉnh về nhân cách, về lối sống.

Bốn đoạn thơ cuối nói riêng hay cả bài thơ nói chung chính là những xúc cảm rất đỗi chân thực về những thông điệp mà Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến với độc giả. Mượn hình ảnh vầng trăng để nói lên cách sống, lối sống, suy nghĩ của một bộ phận con người trong xã hội hiện đại, thờ ơ, vô cảm với xung quanh, với quá khứ và hiện tại.

Cũng như bao nhà thơ trẻ khác trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nguyễn Duy đã từng trải qua nhiều gian khổ, từng chứng kiến biết bao sự hi sinh, mất mát lớn lao của dân tộc, cùng gắn bó với thiên nhiên núi rừng nghĩa tình. Nhưng khi đã ra khỏi thời bom đạn ác liệt, được sống trong hòa bình với nhiều tiện nghi hiện đại, không phải ai cũng nhớ những gian nan, những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” đã ghi lại một thoáng, một lần giật mình trước cái điều vô tình dễ gặp ấy, đặc biệt là bốn khổ cuối bài thơ.

Bài thơ ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh. Đó là thời điểm ba năm sau ngày kết thúc chiến tranh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quá khứ một thời đã xa, hình ảnh vầng trăng trong hiện tại được nhà thơ miêu tả:

Đất nước hòa bình. Hoàn cảnh sống thay đổi, xa rời cuộc sống giản dị của quá khứ, con người được sống sung túc trong “ánh điện cửa gương”. Đó là một cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên. Từ đó nhà thơ diễn tả sự đổi thay trong tình cảm của con người lãng quên vầng trăng từng một thời là tri kỷ. “Vầng trăng tình nghĩa” trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình. Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết.

Từ đó, trong lòng nhà thơ bộn bề những suy nghĩ, cảm xúc trước vầng trăng:

Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng trong tư thế lặng im có phần thành kính: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Tư thế tập trung chú ý, mặt đối mặt nhìn trực tiếp với thái độ dửng dưng cảm xúc thiết tha thành kính, tâm trạng xúc động, cảm động trong lòng tác giả khi gặp lại vầng trăng. Vầng trăng gợi nhớ cho anh quá khứ. Đó là những kỉ niệm của những năm tháng gian lao. Hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu: “như là đồng là bể/ như là sông là rừng”.

Hình ảnh trăng cứ tròn vành vạnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, nguyên vẹn và tràn đầy thủy chung, nhân hậu. Từ “cứ” cho thấy sự bền bỉ, son sắt, dẫu năm tháng có qua đi thì trăng vẫn cứ như thuở ban đầu. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Nhà thơ thấy giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình bạc bẽo, sự vội vàng trong cách sống, cái giật mình của sự ăn năn tự trách mình, tự thấy mình phải thay đổi. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người. Vì thế, khổ thơ cuối là bài học triết lý sâu sắc đối với mỗi người: Con người không được quên quá khứ, phản bội lại quá khứ và thiên nhiên. Hãy trân trọng những quá khứ tốt đẹp.

Trăng vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca truyền thống để giãi bày tâm sự, vẻ đẹp thánh thiện, sự chiêm nghiệm… và trong mỗi thể loại thơ trăng lại mang một nét đẹp riêng. Đặc biệt là trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Đến với bốn khổ thơ cuối, người đọc sẽ cảm nhận được thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm.

Quỹ đạo của cuộc sống và dòng đời trong đục khiến con người cứ tất bật, hối hả, chìm trong nhịp sống gấp gáp làm ăn. Nhưng cuộc đời lại là một chuỗi những quy luật nhân – quả nối tiếp nhau, con người có lúc may, lúc rủi, lúc thành công, khi thất bại, lúc vui buồn và sự đổi ngôi là tất yếu để mỗi người tự hoàn thiện mình hơn: “thình lình đèn điện tắt/phòng buyn đinh tối om”. Một sự kiện bình thường, ngẫu nhiên trong cuộc sống hiện đại được Nguyễn Duy đưa vào trong thơ và sử dụng tài tình thành điểm thắt nút, đẩy bài thơ lên đến cao trào. Bởi nếu như không có cảnh hôm ấy chắc mấy ai đã nhìn lại mình mà suy xét bản thân để nhận ra sự thay đổi vô tình của mình. Bốn khổ cuối bài thơ đã làm nổi bật lên điều đó:

Cả khổ thơ là một chuỗi những hành động liên tục, kế tiếp nhau, nhanh, dồn dập gấp gáp để rồi ngỡ ngàng, ngạc nhiên không nói thành lời: “đột ngột vầng trăng tròn”.

Ta bỗng dưng tự hỏi tại sao lại là trăng tròn mà không là trăng khuyết? Một câu hỏi thật khó trả lời bởi tròn khuyết vốn là quy luật của tự nhiên. Còn trăng ở đây đã được nhân cách hóa với những suy nghĩ, tâm tư rất con người, rất đời thường vậy mà: “trăng vẫn tròn vành vạnh/kể chi người vô tình”. Cái khuyết trong tâm hồn con người bỗng trở nên ngại ngùng xấu hổ trước trăng, trước sự vẹn tròn; chung thủy trước sau như một của trăng. Phải chi trăng khuyết đi cho lòng người đã ân hận, đỡ hổ thẹn với trăng:

Một khoảnh khắc im lặng trong hiện thực nhưng trong nội tâm con người nổi xúc động trào dâng đến đỉnh điểm. Mọi ký ức của một thời xa xăm, một thời gian khó, gắn bó thuở nào bỗng dội về trước mặt:

Ánh trăng, đó là những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm hạnh phúc. Hay là đồng là bể, là quê hương làng xóm và những người thân yêu ruột thịt. Cũng còn là sông là rừng, là những người đồng chí anh em. Đó còn là những vui buồn – hạnh phúc, những đắng cay ngọt bùi một thuở. Thế mà lòng người đã sớm quên mau để bây giờ chợt giật mình, chợt sực tỉnh, xót xa ân hận, để phải rưng rưng không nói thành lời.

Lại một lần nữa hình ảnh trăng được nhân hóa. Đó không phải là mặt trăng bình thường nữa. Đó là khuôn mặt của một người bạn đã từng tri kỷ với những người đang sống, đang hiển hiện trước trăng. Qua bao nhiêu biến động thăng trầm, người bạn ấy vẫn thủy chung son sắt, bao dung độ lượng, nhân ái như thuở nào.

Nhà thơ Nguyễn Duy đã tìm được một điểm nhìn vừa thông minh vừa sắc sảo; tinh tế mà cụ thể, chi tiết. Tại sao không phải là trăng chênh chếch; trăng xa xa hay trăng lấp ló mà lại là trăng trên đỉnh đầu để phải ngửa mặt lên nhìn mặt?

Phải chăng đó cũng là dụng ý của tác giả? Bởi trăng bao dung, độ lượng là thế. Từ điểm nhìn của nhà thơ, ánh trăng cứ lan tỏa ra mênh mông; soi rọi chiếu sáng. Một không gian mênh mông rộng lớn phủ đầy ánh trăng, ngập chìm trong ánh trăng – thánh sáng ngọc ngà tinh khiết. Thời gian và không gian (trăng rọi đỉnh đầu) trong khổ thơ đã khiến ta nhận thấy nó không phải là sớm nhưng cũng chưa đến nỗi muộn để không nhận ra mọi thứ. Phải chăng nhà thơ đã đồng nhất thời gian trong hiện thực và thời gian trong tâm tưởng con người? Hình ảnh trăng ở đây đã lên đến đỉnh điểm thành công của tác giả. Nó chứa đựng một ý nghĩa thật lớn lao sâu sắc, một giá trị nhân văn to lớn. Trăng không còn là trăng của thiên nhiên; không phải là trăng ví như một con người mà nó mang ý nghĩa tượng trưng cho cả một lớp người, một thế hệ. Một thế hệ với bao cống hiến hy sinh trong những thời khắc gian khó, ác liệt; những năm tháng cam go thử thách khi đất nước lâm nguy để đến khi trở về cuộc sống đời thường – đất nước thanh bình, họ lại bình dị đến đạm bạc, không chút đòi hỏi, bon chen danh vọng. Trong số họ có những người không may mắn được trở về; có những người còn gửi lại nơi chiến trường một phần cơ thể và những di chứng chiến tranh cho thế hệ con cái; có những người được Tổ quốc quê hương biết đến song vẫn còn có những người tài sản chỉ là chiếc ba lô sờn vai vì trận mạc và cuộc sống của họ chỉ diễn ra âm thầm lặng lẽ bình dị như bao người bình thường khác nhưng họ vẫn sống và giữ trọn nghĩa tình với quê hương, đất nước, với những người đồng chí đồng đội của mình. Một tấm lòng cao cả, bao dung, độ lượng, một niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tình cảm của họ vẫn tròn vành vạnh, trước sau như một đâu kể cho những người vô tình, những người lãng quên. Trăng lại trở về với chính nó; giản dị tự nhiên, mộc mạc:

Nghệ thuật láy khiến hình ảnh thơ được khắc sâu, in đậm trong tâm tưởng con người, khiến con người phải tự vấn lại lương tâm, tự suy xét lại bản thân. Hai câu cuối bài là lời kết nhẹ nhàng nhưng khá sâu sắc, tạo nên sức lắng cho bài thơ. Cái giật mình của tác giả hay cũng chính là điều Nguyễn Duy muốn gửi gắm, nhắn nhủ mỗi chúng ta: cuộc sống hôm nay dẫu ồn ào náo nhiệt; dẫu cho mỗi con người chỉ có một chút khoảnh khắc để giật mình sực tỉnh nhìn lại chính mình nhưng điều đó sẽ làm cho cuộc sống có ý nghĩa và giá trị biết bao.

Lời thơ không triết lý, chỉn chu nhưng đã để lại trong lòng người đọc dòng suy nghĩ về nhân tình thế thái; quá khứ và hiện tại luôn song hành nhắc nhở hoàn thiện mỗi con người; chính nghệ thuật dùng sự hồi tưởng, tự đấu tranh, suy nghĩ trong nội tâm con người đã làm nên thành công, khiến bài thơ còn mãi với thời gian.

Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác như một lời tự nhắc nhở nhớ về những năm tháng gian lao đã qua của người lính. Đặc biệt, bốn khổ cuối của bài thơ đã làm rõ cảm xúc của nhân vật trữ tình khi gặp lại cái vầng trăng tình nghĩa:

Chiến tranh qua đi, người lính từ biệt nơi chiến trường đau thương để về với thành phố. Cuộc sống hiện đại của thành phố với “ánh điện”, “cửa gương” – đó là ánh sáng của văn minh hiện đại đã khiến con người dần quên đi cuộc sống ở chiến trường. Và sự thay đổi hoàn cảnh sống đã dẫn đến sự thay đổi về tình cảm. Những ánh sáng của văn minh, làm khuất đi ánh sáng quen thuộc của ánh trăng. Để rồi ngay cả khi vầng trăng vô tình đi qua ngõ, lại giống như người dưng qua đường. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “vầng trăng” – “người dưng”. Hai chữ “người dưng” dùng để chỉ những người không quen biết, hoàn toàn xa lạ. Vậy mà ở đây, thật buồn làm sao khi “ánh trăng” đã từng là người bạn tri kỷ gắn bó suốt những năm tháng chiến tranh lại trở nên xa lạ. Để rồi chỉ khi rơi vào tình huống thật bất ngờ, nhân vật trữ tình mới chợt nhận ra:

Tình huống bất ngờ xảy ra ở đây là mất điện, khiến cho “phòng buyn-đinh” trở nên tối om. Nhân vật trữ tình vội vàng “bật tung cửa sổ” – một hành động mạnh mẽ, quyết liệt để tìm kiếm ánh sáng. Và rồi ánh trăng hiện ra ngay trước mắt. Không phải đến hôm nay ánh trăng mới xuất hiện, trăng vẫn ở đó, chỉ có con người là không để ý. Cách dùng từ “đột ngột” gợi ra một cảm giác bất ngờ, không báo trước khiến con người thấy bàng hoàng và xúc động. Thì ra biết bao lâu nay, ánh trăng vẫn ở đó, tròn đầy và sáng rõ. Nếu trước đó chỉ là sự tình cờ “đi qua ngõ” thì ở đây, nhân vật trữ tình đã đối mặt trực tiếp với anh trăng:

Đối mặt với ánh trăng, bỗng nhiên mọi kỉ niệm xưa cũ lại quay về. “Có cái gì rưng rưng” – sự xúc động nghẹn ngào khi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ hòa mình với thiên nhiên, nhờ về những ngày tháng chiến đấu gian khổ bên vầng trăng hiện về. Để rồi, nhân vật tự trách móc bản thân:

Ánh trăng thì vẫn tròn đầy như vậy, mang trong nó một tình cảm thủy chung chân thành. Còn con người thì lại vô tình thay đổi. Nhưng trước sự thay đổi ấy, ánh trăng lại không một lời trách móc – “im phăng phắc”, mà bao dung và tha thứ. Điều đó khiến cho con người phải cảm thấy “giật mình” – thức tỉnh trước ánh trăng. Con người nhận ra sự vô tâm, có phần bội bạc của bản thân và rồi tự nhắc nhở mình không được quên đi thứ tình nghĩa tốt đẹp ấy.

Như vậy, bốn khổ thơ cuối là bước chuyển biến lớn trong mạch cảm xúc của bài thơ. Nguyễn Duy đã tạo ra một tình huống độc đáo để từ đó gửi gắm những bài học sâu sắc.

Nguyễn Duy là thơ tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác. Trong số các tác phẩm của ông, chắc hẳn ai cũng đều biết đến bài thơ “Ánh trăng” được sáng tác năm 1978. Đến với bốn khổ thơ cuối, người đọc sẽ cảm nhận được tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đối mặt với vầng trăng của hiện tại:

Ánh trăng trong hiện tại gắn với thời điểm khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đã kết thúc. Người lính từ biệt nơi núi rừng khắc nghiệt để về với thành phố của hòa bình, của hiện đại. Dần quen với những thứ ánh sáng của văn minh là “ánh điện”, “cửa gương”, họ dần quên đi cái vầng trăng từng bầu bạn suốt những năm tháng chiến tranh. Ánh trăng lúc này đã trở thành một “người dưng” – xa lạ, không còn thân quen.

Chỉ đến khi tình huống thật bất ngờ xảy ra, thành phố mất điện, chìm vào bóng tối. Nhân vật trữ tình liền vội vàng “bật tung cửa sổ”, một hành động đầy mạnh mẽ, quyết liệt để tìm kiếm ánh sáng. Thì bỗng nhiên nhìn thấy hiện ra trước mắt là “đột ngột vầng trăng tròn”. Không phải hôm nay, ánh trăng mới xuất hiện, nhưng phải đến hôm nay – khi xảy ra một tình huống thật bất ngờ, nhân vật trữ tình mới nhận ra ánh trăng. Từ láy “đột ngột” diễn tả một sự việc xảy ra không báo trước. Ở đây, nhân vật trữ tình cảm thấy thật ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của vầng trăng – một người bạn đã từng thân quen trong quá khứ.

Trong tình huống bất ngờ ấy, người lính khi xưa giờ mới có dịp đối mặt trực tiếp với vầng trăng năm xưa. Để rồi bao nhiêu kỉ niệm trong quá khứ lại ùa về khiến anh cảm thấy “có gì đó rưng rưng” – thể hiện sự xúc động, nghẹn ngào. Đó là những năm tháng tuổi thơ hòa mình với thiên nhiên có vầng trăng bầu bạn, những năm tháng sống ở nơi rừng núi, chiến đấu có ánh trăng sẻ chia…

Vầng trăng ấy cứ tròn vằng vặc như vậy, giống như tình nghĩa thủy chung của người bạn tri kỷ dành cho người lính. Không một chút trách móc con người kia đã quá vô tình, quên đi tình nghĩa bao nhiêu năm gắn bó trải qua gian khổ. Ánh trăng vẫn im lặng dõi theo từng bước đi của con người với cái nhìn bao dung, rộng mở. Chính sự cao thượng ấy đã khiến cho “ta giật mình”. Sự giật mình ấy là sự thức tỉnh để rồi chợt nhận ra rằng bản thân đã quá vô tâm, quên đi những người bạn tri kỷ.

Bằng giọng điệu tự nhiên, cùng với việc xây dựng hình ảnh thơ giàu tính biểu cảm, Nguyễn Duy đã gửi gắm một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị và hiền hậu.

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bước ra từ cuộc chiến, hồn thơ Nguyễn Duy lại đau đáu, trăn trở với những miền kí ức xa xưa và ân nghĩa trong kháng chiến thuở nào. Bài thơ “Ánh trăng” thể hiện một phần tâm sự như thế của nhà thơ. Đoạn thơ sau đây thể hiện rất rõ điều đó:

Bài thơ ra đời khi đất nước đã đi qua những cuộc chiến tranh gian khó. Nhà thơ rời những chiến trường để về với hoà bình, về với ấm êm. Cứ ngỡ rằng cuộc đời từ nay chỉ có phố phường, đèn điện; những năm tháng cũ đã qua rồi, tất cả một đi không trở lại…

Advertisement

Từ những năm tháng tuổi thơ bươn trải nhọc nhằn gắn bó với đồng, với sông rồi với bể cho đến những năm tháng chiến tranh gian khổ sống với rừng, bao giờ trăng cũng gần gũi, thân thiết. Giữa con người với thiên nhiên, với trăng là mối quan hệ chung sống, quan hệ thâm tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của ký ức chan hòa tình nghĩa. Người ta cứ đinh ninh về sự bền chặt của mối giao tình ấy, nhưng:

Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói lóa của ánh điện, cửa gương đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa hình ảnh vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng “như người dưng qua đường” trong hiện tại. Sự đối lập này diễn tả những đổi thay trong tình cảm của con người. Thuở trước, ta hồn nhiên sống “với đồng, với sông, với bể”, với gian lao “ở rừng”, khi ấy trăng chan hòa tình nghĩa, thiên nhiên và con người gần gũi, hoà hợp. Bây giờ, thói quen cuộc sống phương tiện đủ đầy khiến ta không còn thấy trăng là tri kỷ, nghĩa tình nữa. Nhà thơ nói về trăng là để nói thế thái, nhân tình.

Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại luôn có những bất trắc. Và chính trong những bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận thấy giá trị của quá khứ gian lao mà tình nghĩa, thiếu thốn mà đủ đầy:

Không chỉ là sự thay thế đúng lúc của ánh trăng cho ánh điện, ở đây còn là sự thức tỉnh, bừng ngộ về ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những cái bình dị của cuộc sống, của tự nhiên, là sức sống vượt ra ngoài không gian, thời gian của tri kỷ, nghĩa tình. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Có cái gì như thảng thốt, lo âu trong hình ảnh “vội bật tung cửa sổ”. Vầng trăng tròn đâu phải khi “đèn điện tắt” mới có? Cũng như những tháng năm quá khứ, vẻ đẹp của đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi. Và thế là trong cái khoảnh khắc “thình lình” đối diện với trăng ấy, ân tình xưa “rưng rưng” sống dậy, thổn thức lòng người:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt” viết như vậy để hai gương mặt – hai người bạn cũ nhìn thẳng vào nhau, để tự hỏi nhau rằng còn nhớ nhau chăng, để những kỉ niệm xưa chợt vụt về trong ký ức, để làm se thắt lòng người vì những vô tình hờ hững của chính mình. Quả có vậy, đối diện với trăng là đối diện với chính mình, với con người hiện tại và cả với con người trong quá khứ. Vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng. Mặt trăng đối diện với mặt người, mặt trăng cũng là mặt người, là quá khứ đang sáng trong thực tại, trăng là tri kỉ, ân tình xưa…

Vầng trăng đột ngột hiện ra với một vẻ đẹp ám ảnh lòng người. “Trăng cứ tròn vành vạnh”, thời điểm trăng tròn chính là vào ngày rằm hàng tháng. Câu thơ gợi đến vẻ đầy đặn, tròn trịa của vầng trăng và cũng là vẻ sáng tươi hiền dịu của thứ ánh sáng trong lành nhất vũ trụ. Đêm trăng tròn, trăng để khắp không gian tràn đi ánh sáng vàng dịu, sóng sánh như mật ngọt. Trăng như rải bạc trên mặt nước. Trăng như tưới sạch, làm đẹp, làm bóng lên những lùm cây. Trăng làm mặt người hớn hở vui cười. Và nói như nhà văn Nam Cao: “trăng làm mọi thứ đẹp lên”. Nhưng vẻ “tròn vành vạnh” của vầng trăng còn gợi đến một suy tưởng khác: vầng trăng còn tròn đầy “vành vạnh” nghĩa là trăng vẫn còn trọn vẹn những ân nghĩa xưa với những người lính năm nào. Và điều đáng quý, đáng nghĩ là trăng vẫn tròn ngay cả khi người đã “vô tình”: “Trăng cứ tròn vành vạnh/kể chi người vô tình”.

Câu thơ gieo vào lòng người đọc một thoáng giật mình để rồi thấy ăn năn, day dứt. Vầng trăng kia cũng giống như bao con người, bao kí ức đẹp đẽ đã đi qua đời ta. Những con người của quá khứ, những kí ức xa xưa… tất thảy vẫn còn nguyên tấm lòng thuỷ chung trọn vẹn. Còn riêng ta, mới một chút phù hoa, danh lợi mà đã quên đi những ân tình, những thề nguyền thiêng liêng xưa cũ. Và rồi, ta càng thấy day dứt, băn khoăn hơn bởi khoảng lặng mênh mang của vầng trăng tròn cao thượng: “Ánh trăng im phăng phắc/đủ cho ta giật mình”.

“Ánh trăng im phăng phắc” để ngân mãi những dòng ánh sáng tỏa đi khắp nhân gian. Điều đó cũng có nghĩa trăng mãi hao dung, hiền từ và độ lượng. Cái đáng sợ là cái im lặng của kí ức. Ta đã quên đi quá khứ, ta đã có lỗi với người xưa để sống một cuộc đời ồn ào, náo nhiệt nhưng tất cả vẫn im lặng dõi theo ta với cái nhìn bao dung, rộng mở. Và chính bởi sự cao thượng ấy đã khiến ta “giật mình”. “Giật mình” để nhận ra sự cao đẹp của người xưa. “Giật mình” để nhận ra phần hờ hững, lãng quên đáng chê trách của mình. “Giật mình” còn để biết nhìn lại mình cho đúng. Tiền tài danh lợi, đó chưa phải là điều quý giá nhất ở đời. Phải biết sống có tình, có nghĩa, thuỷ chung trọn vẹn trước sau mới khiến lòng người sạch trong và thanh thản.

Không dùng nhiều thủ pháp nghệ thuật cầu kỳ, tinh xảo, đoạn thơ của Nguyễn Duy đi vào lòng người bởi sự giản dị của quy luật tình cảm rất con người. Đọc khổ thơ, người đọc thấy thấm thía triết lý sâu xa mà nhà thơ đã gửi gắm. Phải biết sống đủ đầy, trọn vẹn với những ân tình xưa cũ để chúng ta được sống đủ đầy, thanh thản trong cuộc đời.

Bài thơ giống như một câu chuyện riêng, một câu chuyện ân tình giữa người với trăng. Sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình tạo nên giọng điệu tâm tình cho cả bài thơ. Nhịp thơ nhịp nhàng theo lời kể tự nhiên của nhân vật trữ tình, nhưng cũng có khi ngân nga, tha thiết hay có khi trầm lắng, suy tư.

Văn Mẫu Lớp 11: Tổng Hợp Những Mở Bài Về Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ (48 Mẫu) Mở Bài Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Mở bài gián tiếp Đây thôn Vĩ Dạ

Mở bài bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ

Mở bài phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Mở bài cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ 

Mở bài cảm nhận khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ

Mở bài phân tích khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ 

Mở bài phân tích khổ cuối bài Đây thôn Vĩ Dạ

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ nâng cao Mở bài mẫu 1

Nhà thơ Hàn Mặc Tử được biết đến với sức sáng tạo nhất trong số các nhà Thơ mới. Ông có một cuộc đời ngắn ngủi và đầy bi kịch. Thơ của Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn và tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ, thể hiện một hồn thơ tha thiết nhưng tuyệt vọng.

Mở bài mẫu 2

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng đoản mệnh, ông mắc phải căn bệnh phong nên thơ ông luôn thấm đẫm nỗi đau đớn cùng với mặc cảm chia lìa, ông là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng qua hồn thơ phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn, người đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế của ông. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Chính vì vậy, qua bao nhiêu thế hệ, người ta có ba ý kiến nhận định về bài thơ: Đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín; là lời yêu thương với một miền quê; là niềm khao khát được sống trong niềm sẻ chia, đồng cảm được trở về với cuộc đời.

Mở bài mẫu 3

Trên bầu trời rực rỡ của phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử tựa hồ như một ngôi sao chói lọi. Thơ ông vừa thể hiện tình yêu thiết tha đối với cuộc sống trần tục, vừa hướng lên Chúa Trời, tới những miền thanh khí thần tiên. Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong. Căn bệnh kinh khủng này đã đầy đọa ông cả về thể xác, lẫn tinh thần suốt trong ba năm trước khi ông nhắm mắt. Chỉ vẻn vẹn hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó, Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một kiệt tác. Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên, xuất bản sau khi tác giả qua đời.

Mở bài mẫu 4

Lẽ tự bao giờ mà thơ ca luôn mang dáng dấp của những bóng hình, nỗi nhớ thương và nỗi niềm đớn đau khao khát của một cuộc đời ? Phải chăng là vì tình yêu, về những kỉ niệm đẹp nơi xứ xở mộng mơ gắn liền với người thương thuở ấy? Và thơ ca Việt Nam đã có cả một bầu trời dành cho nỗi nhớ thương. Chàng thi sĩ họ Hàn – Hàn Mặc Tử đã đánh rơi những giọt nước mắt của mình lên thơ,hòa cùng một dòng chảy nghệ thuật đầy ắp nỗi nhớ thương của mối tình đầu ngọt ngào say đắm hòa quyện trong làn khói mờ ảo của thiên nhiên xứ Huế. Và chính khoảnh khắc đó ”Đây thôn Vĩ Dạ” ra đời như một đứa con tinh thần bù đắp những tổn thương lòng và phần nào an ủi một tâm hồn buồn đau u uất. Bài thơ thể hiện một cách đặc sắc nổi lòng chàng thi sĩ họ Hàn mang trong mình căn bệnh sắp rời khỏi cõi đời vẫn vấn vương khung cảnh về một miền xứ sở tuyệt đẹp nơi có người thương – Vĩ Dạ.

Mở bài gián tiếp Đây thôn Vĩ Dạ Mở bài mẫu 1

Vẫn biết rằng cứ thương rồi sẽ nhớ, cứ đợi chờ rồi lại đau, cứ hoài niệm rồi lại thêm nhớ thương, xa cách. Lớp bụi thời gian bủa vây tâm trí những con người đang vật lộn với chính mình, với những hoài niệm đã qua. Và rồi người thi sĩ ấy cầm bút viết, viết về những khoảng mênh mông đong đầy tình nghĩa, về những kỉ niệm thẳm sâu còn lưu lại trong kí óc của mình. Chàng trai ấy chính là Hàn Mặc Tử – con người bôn ba khắp xứ xở của niềm đau rồi lại quay trở về với những kí ức mơ hồ, ảo mộng.Thơ của ông mang màu sắc riêng, nhẹ nhàng, tinh khiết nhưng mang dáng dấp hư hư thực thực. Vì thế mà “Thơ Điên” điển hình là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là một tuyệt tác thi ca về tình yêu, về nỗi buồn và khát vọng sống.

Mở bài mẫu 2

Lẽ tự bao giờ mà thơ ca luôn mang dáng dấp của những bóng hình, nỗi nhớ thương và nỗi niềm đớn đau khao khát của một cuộc đời ? Phải chăng là vì tình yêu, về những kỉ niệm đẹp nơi xứ xở mộng mơ gắn liền với người thương thuở ấy? Và thơ ca Việt Nam đã có cả một bầu trời dành cho nỗi nhớ thương.Chàng thi sĩ họ Hàn- Hàn Mặc Tử đã đánh rơi những giọt nước mắt của mình lên thơ, hòa cùng một dòng chảy nghệ thuật đầy ắp nỗi nhớ thương của mối tình đầu ngọt ngào say đắm hòa quyện trong làn khói mờ ảo của thiên nhiên xứ Huế. Và chính khoảnh khắc đó ”Đây thôn Vĩ Dạ” ra đời như một đứa con tinh thần bù đắp những tổn thương lòng và phần nào an ủi một tâm hồn buồn đau u uất. Bài thơ thể hiện một cách đặc sắc nỗi lòng chàng thi sĩ họ Hàn mang trong mình căn bệnh sắp rời khỏi cõi đời vẫn vấn vương khung cảnh về một miền xứ sở tuyệt đẹp nơi có người thương – Vĩ Dạ.

Mở bài mẫu 3

Huế mang nét đẹp thật riêng, vừa cổ kính, vừa uy nghiêm mà lại rất đỗi trữ tình.Đặt chân lên xứ Huế, ta thả hồn vào mảnh đất cố đô yên bình mộng mơ mang dáng dấp thướt tha của những tà áo dài, sông Hương hiền hòa mỗi chiều gió lộng và những câu hát gợi nhớ thương.Ở Huế có những điều làm ta lưu luyến quá, trong đó có cả những mối tình đẹp mà lại dang dở, chưa kịp có những phút giây ngọt ngào mà đã vội rơi vào chia lìa , xa cách.Phải chăng đó chính là mối tình của chàng thi sĩ Hàn Mặc Tử đã đưa vào thơ, mối tình xứ Huế ngọt ngào mà đau đớn, mối tình của “ Đây thôn Vĩ Dạ”. Mối tình đẹp ấy được khắc họa qua vẻ đẹp thiên nhiên nơi xứ sở thâm trầm, bình yên ấy, phần nào bộc lộ nỗi lòng khao khát sống, khao khát yêu thương đến cháy bỏng mãnh liệt. Đó là những gì mà “ Đây thôn Vĩ Dạ” kết tinh lại rồi thổi hồn vào lòng người đọc.

Mở bài mẫu 4

Ai đã từng đến với xứ Huế mộng mơ, chắc chắn sẽ không thể quên được những cảnh đẹp nơi đây: sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ. Cảnh đẹp nơi đây đã từng làm say đắm tâm hồn bao nhà thơ, trong đó có Hàn Mặc Tử. Có lẽ bởi vậy mà Hàn Mặc Tử đã viết Đây thôn Vĩ Dạ – một bức tranh thật đẹp về cảnh vật và con người xứ Huế. Đối với riêng tôi, ấn tượng sâu đậm nhất mà bài thơ để lại là: mối tình yêu đơn phương, thầm lặng và cay đắng của thi nhân đối với người con gái thôn Vĩ. Đã có không ít sự giải thích về xuất xứ và cách hiểu bài Đây thôn Vĩ Dạ. Song, nếu lấy văn bản làm căn cứ chính, thì phải thừa nhận bài thơ tuy có chứa đựng một thông điệp tình yêu – một tình yêu trong trắng, thơ mộng, nhưng đơn phương và vô vọng, đồng thời, nhờ có tình yêu đó.

Mở bài bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ Mở bài mẫu 1

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Nỗi đau về bệnh tật, nỗi đau về một kiếp sống ngắn ngủi đã khiến cho những vần thơ của ông thấm đẫm một nỗi buồn da diết. “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng là một bài thơ được nhà thơ sáng tác vào những năm cuối đời của mình, với nỗi niềm tiếc nuối với mối tình với cô gái trong mộng chưa kịp chớm nở đã bị số phận trớ trêu cắt đứt. Bài thơ cũng là một bức tranh về thôn Vĩ Dạ thơ mộng bên bờ sông Hương, thật đẹp, những vẫn thấm đẫm một nỗi buồn da diết, bâng khuâng của Hàn Mặc Tử.

Mở bài mẫu 2

Hàn Mặc Tử làm thơ từ năm 16 tuổi, ông là một thiên tài mà tài năng được bộc lộ rất sớm. Hồn thơ ông vừa có những nét ma mị vừa có nét trong trẻo, tươi sáng, cho thấy một phong cách thơ đa dạng, phức tạp. Đây thôn Vĩ Dạ có thể coi là một trong những bài thơ hay nhất của ông, tác phẩm đã dựng lên khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, hiền hòa, mà cũng đầy cô đơn của một tâm hồn khát khao yêu thương, khát khao sống mãnh liệt.

Mở bài mẫu 3

Hàn Mặc Tử được biết đến là một nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt với phong cách “điên”, có đôi khi là vượt ra khỏi thế giới hiện thực, tràn ngập mộng mị. Tuy nhiên sáng tác của ông vẫn có những vần thơ về thiên nhiên mượt mà, đẹp tươi như rọi vào lòng người đọc xúc cảm mới. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, thiên nhiên xứ Huế mộng mơ. Bức tranh ấy neo đậu trong lòng nhà thơ và neo lại trong lòng người đọc nhiều dư âm

Mở bài phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 1

Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào tronq thơ, những giây phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 2

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài năng, một diện mạo thơ bí ẩn, phức tạp bậc nhất trong thơ ca Việt Nam. Thơ ông vừa có sự trong trẻo, tinh khiết vừa có cái ma quái, bí ẩn, chính những yếu tố đó đã làm nên sự hấp dẫn trong thơ Hàn Mặc Tử. Thơ điên (sau đổi thành Đau thương) là những nét vẽ cụ thể của phong cách thơ ấy. Có thể nói bài Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ trong trẻo, tươi sáng nhất trong tập thơ này của ông.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 3

Khi được gọi tên cho Phong trào thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã gọi đó là một “Cây nấm lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc”. Cái “lạ” của thơ mới, có người biết, có người chưa biết, nhưng cái “lạ” mà người thi sĩ Hàn Mặc Tử mang theo khi bước vào làng thơ, thì hẳn ai cũng rõ. Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tượng của hồn, trăng, và máu đã không thôi ám ảnh những ai yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng chẳng ai có thể tưởng đến giữa một rừng thơ ma quái và kì dị ấy, lại mọc lên một bông hoa trong sáng tinh khôi, còn vương bao hương sắc ở đời. Bông hoa ấy Hàn đặt tên “Đây thôn Vĩ Dạ”, trong nó chứa chở bao cảm xúc và hoài nhớ về một miền quê từng gắn bó biết bao…

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 4

“Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như ngôi sao chổi với cái đuôi chói lòa rực rỡ”. Trong làng thơ mới, Hàn Mặc Tử là thi sĩ có diện mạo thơ vô cùng phức tạp và bí ẩn. Thơ Hàn có sự đan xen cả những gì thân thuộc, thanh khiết nhất, cả những gì ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất. Trong thế giới đó, trăng, hoa, nhạc, hương hòa lẫn với linh hồn, yêu ma. Đằng sau diện mạo thơ hết sức phức tạp ấy, ta thấy hằn lên tình yêu mãnh liệt đến đau đớn hướng về cuộc đời. In trong tập “Thơ Điên”, “Đây thôn Vĩ Dạ” là những vần thơ tinh khôi trong trẻo trong gia tài Hàn Mặc Tử mà vẫn ẩn chứa tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời như thế.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 5

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mặc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mặc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 6

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử. Bài thơ về xứ Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, là tiếng lòng tha thiết về quê hương, nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những câu hò đượm chút tình của Huế.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 7 Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 8

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho nhân gian. Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương, đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà nhà thơ đã gắn bó ở đây.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 9

Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mặc Tử. Một sự nghịch lí, lạ đời vì trăng cũng là chung cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung ấy lại được tái hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không những là bức tranh thủy mặc về một vùng của cố đô Huế mà nó còn là nỗi lòng gửi tới phương xa của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 10

Nhắc đến Hàn Mặc Tử không thể không nhắc đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- một trong những tuyệt phẩm bất hủ của ông. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc- người con gái ông từng thầm yêu. “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác trong thời gian ông đang điều trị bệnh ở Quy Hòa nên mỗi tứ thơ trong câu từ của tác phẩm đều mang một nỗi niềm khát khao được giao cảm của nhà thơ.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 11

Đây thôn Vĩ Dạ được Hàn Mặc Tử sáng tác vào năm 1938, tại trại phong Tuy Hòa khi chỉ còn ít thời gian nữa nhà thơ vĩnh biệt cuộc đời. Sự đau đớn về thân xác, sự cô đơn đến chỉ có trăng, hồn và tiếng thở của tạo hóa làm bầu bạn đã làm cho thi sĩ điên cuồng tìm lại những mảnh ghép đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Trong phút giây tưởng chừng như giọt cảm xúc về tình yêu người, yêu đời trong ông bị vắt cạn kiệt bởi bệnh tật thì tình cờ nhận được bức ảnh về xứ Huế vào đêm trăng và bức thư hỏi thăm của người con gái năm xưa chàng thầm thương – Hoàng Cúc. Chính những điều đó đã gọi cảm xúc những ngày xưa ùa về, để thi sĩ viết nên Đây Thôn Vĩ Dạ.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 12

Hàn Mặc Tử một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. Ông cũng là người từng yêu và cảm giác giang dở trong tình yêu của mình. Nhưng ông lại là một con người lạc quan, hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là những tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ cùng với nỗi niềm tâm trạng của mình.Bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong.

Mở bài cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Mở bài cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 1

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã để lại cho người đọc sâu sắc về một hồn thơ thật độc đáo.

Mở bài cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 2

Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chói lọi diệu kỳ trong vòm trời rực rỡ lấp lánh nhiều tinh tú lạ. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1 Mở bài cảm nhận khổ thơ đầu – Mẫu 1

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng qua hồn thơ phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn, người đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế của ông. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Chính vì vậy, qua bao nhiêu thế hệ, người ta có ba ý kiến nhận định về bài thơ: Đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín; là lời yêu thương với một miền quê; là niềm khao khát được sống trong niềm sẻ chia, đồng cảm được trở về với cuộc đời. Đoạn thơ đầu của thi phẩm đã thể hiện một cách thật tha thiết, xúc động những tâm tình ấy.

Mở bài cảm nhận khổ thơ đầu – Mẫu 2

Nhà thơ Hàn Mặc Tử được biết đến với sức sáng tạo nhất trong số các nhà Thơ mới. Ông có một cuộc đời ngắn ngủi và đầy bi kịch. Thơ của Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn và tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ, thể hiện một hồn thơ tha thiết nhưng tuyệt vọng. Khổ thơ đầu tiên của bài mang đến một bức tranh thiên nhiên đầy vẻ đẹp.

Mở bài cảm nhận khổ thơ đầu – Mẫu 3

Trong suốt dòng chảy của nền văn học, đã có không ít văn sĩ, thi sĩ rẽ ngược dòng hoài niệm để tìm về một “miền nhớ”, ví như “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, “Hai cây phong” của Ai-ma-tốp, “Việt Bắc” của Tố Hữu. Những mảnh đất ấy không đơn thuần chỉ là một địa danh mà đã trở thành nơi ấp ôm trọn vẹn tiếng lòng xao động của người cầm bút, là một bến đỗ để ngàn năm vỗ về tâm hồn con người. Cũng để ngòi bút của mình tuôn chảy trong nguồn cảm hứng vô tận ấy, đốm lửa cháy mãnh liệt của phong trào Thơ Mới, người khởi xướng ra “Trường thơ Loạn” – Hàn Mặc Tử – đã để lại dấu ấn sâu sắc trên thi đàn Việt Nam với thi phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là cuộc hành trình về thăm chốn cũ trong tâm tưởng của tác giả, thể hiện một hồn thơ đầy thiết tha với cuộc đời và tình yêu chưa bao giờ tắt với mảnh đất và con người xứ sông Hương, núi Ngự. Điều đó được thể hiện rõ nét trong khổ thơ đầu.

Mở bài cảm nhận khổ thơ đầu – Mẫu 4

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới 1932 – 1945 với những tác phẩm tiêu biểu. Các nhà thơ đã hòa mình vào thiên nhiên, ngắm nhìn cảnh đẹp quê hương đất nước dù ông đang phải trải qua những đau đớn của bệnh tật với mong muốn được gắn bó lâu hơn với cuộc sống này. Đó là một tinh thần đáng ngợi ca và tâm trạng ấy đã được khắc họa rõ trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Khổ 1 là bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp cùng tâm trạng tiếc nuối của tác giả.

Mở bài cảm nhận khổ thơ đầu – Mẫu 5

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút xuất sắc có đóng góp không nhỏ trong phong trào Thơ mới nói riêng và thành tựu thơ ca Việt Nam nói chung, ông còn được nhớ đến là “thi nhân của những mối tình”, “khuấy” mãi không thành khối. Với “Đây thôn Vĩ Dạ” ông đã chạm khắc vào tâm khảm muôn triệu trái tim một vần thơ tình yêu đơn phương, thơ mộng mà huyền ảo ở xứ Huế mộng mơ.

Mở bài cảm nhận khổ thơ đầu – Mẫu 6

Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới với sức sáng tạo dồi dào cùng phong cách sáng tác ấn tượng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình. Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút đến khung cảnh thiên nhiên giản dị mà đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ:

Mở bài cảm nhận khổ thơ đầu – Mẫu 7

Chế Lan Viên từng nhận xét: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Đến với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, Hàn Mặc Từ đã cho người đọc thấy được một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp nơi thôn Vĩ qua khổ thơ đầu.

Mở bài cảm nhận khổ thơ đầu – Mẫu 8 Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu – Mẫu 1

Trong số các thi nhân của phong trào thơ mới 1932 – 1945 có lẽ ta không thấy ai có số phận ai oán nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử, số mệnh cay đắng của thi sĩ được tiên đoán trước qua ý nghĩa các biệt danh Phong Trần (Gió Bụi), Lệ Thanh (tiếng của nước mắt). Hàn Mặc Tử người đi trong màn lạnh với tấm lòng quặn thắt, ông đã trải lòng mình trên giấy mong manh và cho ra đời nhiều thi phẩm đặc sắc. Một trong số đó là bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ, đọc bài thơ người đọc sẽ có ấn tượng ngay với hai khổ thơ đầu.

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu – Mẫu 2

Nhắc đến phong trào thơ Mới không thể không nhắc tới Hàn Mặc Tử- nhà thơ Điên của nền văn học Việt. Bài thơ “Đây thôn Vĩ dạ” là một tuyệt phẩm tiêu biểu của ông. Hai khổ thơ đầu bài thơ như một khúc ngân nga trữ tình đẹp đẽ và giàu sức gợi.

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu – Mẫu 3

Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “Đây thôn vĩ dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ.

Advertisement

Mở bài phân tích 2 khổ thơ đầu – Mẫu 4

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có số phận đau thương nhưng lại là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Ông để lại cho làng thơ Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”, …Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Tất cả những vẻ đẹp ấy của bài thơ đã được ngòi bút Hàn Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế và sâu lắng qua hai khổ thơ đầu.

Mở bài phân tích khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ Mở bài phân tích khổ 2 – Mẫu 1

Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt đặc sắc của phong trào Thơ mới. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn, tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là bài mang một tình yêu, khát khao cuộc sống như vậy. Khổ thơ thứ 2 của bài thơ mang đến một hoài niệm và tâm trạng lo âu của thi sĩ.

Mở bài phân tích khổ 2 – Mẫu 2

Ai đó đã từng nói “Thơ là tiếng lòng. Đọc thơ, ta nghe thấy tiếng nói cất lên từ sâu thẳm trái tim của thi sĩ. Thơ là sự lên tiếng về thân phận. Đến với bài thơ, ta cảm được tình cảnh, tình thế số phận của nhà thơ”. Và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một bài thơ như thế. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta thấy được một trong những nét độc đáo làm nên phong cách thơ rất lạ của ông, đó là mạch thơ đứt đoạn mà thống nhất, nghĩa là bề ngoài kết cấu như rời rạc nhưng lại có sự thống nhất trong chiều sâu của mạch cảm xúc. Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng.

Mở bài phân tích khổ 2 – Mẫu 3

Phong trào thơ mới năm 1932-1945 là sự nở rộ của cái tôi cá nhân. Có thể thấy nếu thơ trung đại gắn liền với những điều lớn lao, ước lệ thì thơ mới gắn liền với cảm xúc. Như nhà thơ Hàn Mạc Tử nói rằng: “tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”. Về cơ bản thơ Hàn luôn hướng tới quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, nó là nét đẹp kì dị, đau thương đan xen với những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu tâm trạng, như thực mà như mơ.

Mở bài phân tích khổ 2 – Mẫu 4

Trong phong trào Thơ Mới các nhà thơ được tự do thể hiện cái tôi cá nhân của mình. Nếu như Xuân Diệu thể hiện tình yêu thiên nhiên yêu con người nhưng vẫn cô đơn hoài nghi của mình, Lê Trọng Lư thì thả sức phiêu lưu cùng những bài ca tình yêu thì Hàn Mạc Tử lại quằn quại đau đớn trong những vần thơ về bệnh tật. Đọc thơ Hàn Mạc Tử ta không thể nào không nhớ đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – một bài thơ chở đầy những cảm xúc của nhà thơ về con người về mảnh đất Huế thương. Đặc biệt trong bài thơ ấy ta ấn tượng nhất với những cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khi nó mang đầy bi kịch và chất chứa bao nỗi buồn.

Mở bài phân tích khổ cuối bài Đây thôn Vĩ Dạ Mở bài phân tích khổ cuối Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 1

Hàn Mặc Tử một trong ba nhà thơ đỉnh cao của phong trào thơ mới, là nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Các tác phẩm của ông đều được sáng tác với một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại trong đau đớn, luôn có sự giằng xé giữa tâm hồn và thể xác. Đặc biệt bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ đầy tâm trạng của ông giằng cho người mình yêu. Khổ thơ cuối bài là dòng tâm trạng mơ hồ, kì ảo.

Mở bài phân tích khổ cuối Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 2

Trong phong trào thơ mới, Hàn Mặc Tử là hiện tượng thơ kì lạ nhất, “một giọng thơ độc đáo không chia sẻ âm hưởng với bất kì ai”. Viết thơ để trải niềm đau trên mảnh giấy mỏng manh, đi đến tận cùng đau thương, thơ Hàn Mặc Tử thực sự là “huyết lệ” của một linh hồn trước giờ hấp hối sắp chia phôi. Tuy nhiên, bên cạnh những vần thơ huyết lệ, Hàn Mặc Tử vẫn có những tiếng thơ tinh khôi như ánh ban mai, trong trẻo như nước suối đầu nguồn. Rút ra từ tập “Thơ điên”, “Đây thôn Vĩ Dạ” là những vần thơ tinh khôi trong trẻo trong gia tài Hàn Mặc Tử nhưng vẫn ẩn chứa tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời. Nếu khổ thơ đầu tiên diễn tả vườn Vĩ Dạ buổi ban mai, khổ thứ hai là đêm trăng xứ Huế cùng với những mặc cảm, chia lìa, xa cách thì khổ thơ thứ ba lại nói về hình bóng khách đường xa va nỗi niềm mơ tưởng của thi sĩ.

Mở bài phân tích khổ cuối Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 3

Hàn Mặc Tử – thi nhân của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối, ông yêu nhiều nhưng chỉ nhận lại sự đắng cay, bẽ bàng trong những cuộc tình. Cuộc đời ông niềm vui thì ít mà chỉ toàn nỗi cô đơn, đau buồn. Mọi nỗi niềm tâm tư Hàn Mặc Tử đều gửi vào trong thơ. Thơ ông quằn quại trong đớn đau, thấm đẫm nước mắt và có phần điên loạn. Giữa những vần thơ ma quái, kì dị ấy vẫn có những vần thơ thật trong sáng tinh khôi đó chính là kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đặc biệt là khổ thơ cuối ánh lên niềm khát khao tình đời, tình người của thi nhân mạnh mẽ nhất nhưng cũng thật xót xa.

Mở bài phân tích khổ cuối Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 4

Raxun Gamzatop đã từng nói “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình-nghĩa là trở thành nhà thơ”. Chính vì thế thơ của Hàn Mặc Tử tạo nên dấu ấn sâu sắc trong phong trào Thơ mới bởi phong cách riêng độc đáo. Thơ ông mang đến tiếng nói của một tâm hồn yêu thiết tha cuộc sống. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng thể hiện nổi bật tình yêu của tác giả đối với cuộc đời, nhưng lại ẩn chứa đầy tâm trạng. Hai khổ thơ đầu tác giả đã gợi lên được vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, đến khổ cuối tác giả lại nêu lên những hoài niệm về con người thôn Vĩ.

Mở bài phân tích khổ cuối Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 5

Hàn Mặc Tử là cái tên nổi bật thuộc trường phái thơ siêu thực với quan niệm thi ca độc đáo và ngôn ngữ lạ hóa. Ông gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả bằng bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” mang phong cách và hương vị trong trẻo, thiết tha. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cùng niềm khao khát mãnh liệt của trái tim yêu cuộc sống, thiên nhiên và con người tha thiết. Điều này được thể hiện sâu sắc và cảm động nhất qua khổ thơ kết thúc bài thơ.

Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Bài Thơ Tương Tư Của Nguyễn Bính (Dàn Ý + 5 Mẫu) Những Bài Văn Hay Lớp 11

Dàn ý phân tích bài thơ Tương tư

I. Mở bài: giới thiệu bài thơ Tương tư – Nguyễn bính

II. Thân bài: Phân tích bài thơ tương tư của nhà thơ Nguyễn Bính

1. 4 câu thơ đầu:

+ Nỗi tương tư của nhà thơ

+ Hình ảnh đôi trai gái mang dáng vóc mộc mạc, giản dị

+ Sự nhớ thương da diết của chàng trai, nỗi nhớ thương của một người dành cho một người

2. Tâm trạng của người tương tư:

+ Có sự trách móc nhẹ nhàng của chàng trai

+ Nhận thấy được tình cảm nồng thắm của chàng trai dành cho cô gái

+ Nỗi buồn da diết của người tương tư được thể hiện rất rõ ràng

+ Sự thay đổi cách xưng hô

+ Thể hiện nên sự độc đáo, chân thật, mộc mạc trong thơ Nguyễn Bình

III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ Tương tư của Nguyễn Bình

Phân tích Tương tư – Mẫu 1

Với phong cách thơ bình dị, nhẹ nhàng, chân chất; Nguyễn Bính được xem là nhà thơ của đồng nội. Thơ Nguyễn Bính đi sâu vào tâm hồn người đọc bằng chất “quê” đặc biệt, chất “quê” của nông thôn Việt Nam. Tình yêu trong thơ ông rất đỗi ngọt ngào, sâu lắng và dìu dặt như chính con người ông. Bài thơ “Tương tư” rút trong tập “Lỡ bước sang ngang” giãi bày tâm sự thầm kín của một người đang yêu, đang thương nhớ, đang khắc khoải và mong chờ đau đáu.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bính đặt tên bài thơ là “Tương tư”, đây là cảm giác nhớ thương của một kẻ đang yêu, nói đúng hơn là của kẻ yêu đơn phương, đang mong chờ được đáp lại. Mối tình ấy được ấp ủ, được dồn nén thành lời qua những vần thơ mộc mạc, chân thành nhất:

Một không gian thôn quê hiện lên thật bình dị, đơn sơ, và yên bình đến lạ. Thủ pháp nhân hóa được sử dụng rất tài tình, tinh tế. Tác giả mượn “thôn Đoài” và “thôn Đông” để nói lên nỗi nhớ từ tận sâu đáy lòng của mình. Chắc hẳn rằng người mà tác giả đang tương tư ở thôn Đông, còn tác giả lại ở thôn Đoài. Mối tình ấy ẩn mình trong sự thanh mát và bình dị của đồng quê.

Tinh tế và sâu sắc hơn nữa tác giả đã mượn chuyện nắng của của giời để trải lòng mình. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như quy luật của đất trời.

Chỉ với 4 câu thơ ấy, đã khiến người đọc thích thú muốn tìm hiểu về mối tương tư của anh chàng thôn Đoài và cô nàng thôn Đông này. Tuy nhiên đến những câu thơ tiếp theo, dường như lại là lời trách móc nhẹ nhàng và rất chừng mừng. Trách cô gái hững hờ, trách người ta sao lại vờ như không biết gì như thế:

Những câu hỏi dồn dập, nối tiếp nhau tạo nên sự bối rối, lo lắng và chồng chất nỗi niềm trong lòng chàng trai đang yêu. Tác giả đã mượn lối nói dân gian của ca dao, dân ca để hỏi dò cô gái sao lại hững hờ như vậy. Giọng điệu của câu thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển, tha thiết như truyền tải thông điệp đến cho cô gái.

Từ “cớ sao” như một lời trách nhưng lại rất tế nhị, đáng yêu. Mối tương tư của chàng trai trằn trọc suốt bao nhiêu đêm, nhưng chẳng biết ngỏ cùng ai, rồi cũng chẳng ai thấu cho. Bởi vậy mà chàng trai chỉ chờ đợi “bến gặp đò” để mình có thể gặp nàng. Nỗi băn khoăn trong lòng chàng trai cứ chồng chất, cứ dai dẳng và đợi chờ. Và rồi chàng trai lại tự hỏi:

Nhịp điệu của thơ lục bát uyển chuyển, nhẹ nhàng, tha thiết. Tác giả mượn “giàn trầu” và “hàng cau” để diễn tả nỗi nhớ da diết và quấn quýt như dây trầu quấn lấy thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi diễn tả nỗi nhớ bằng những hình ảnh thân quen và mộc mạc ấy. Ở 4 câu thơ này, người đọc nhận ra có sự thay đổi giữa cách xưng hô, tác giả đã mạnh dạn chuyển “tôi-nàng” thành “anh-em” rất táo bạo. Dấu hiệu này chứng tỏ mối tình này đã quá lớn, đã quá sâu và chàng trai muốn giãi bày trực tiếp với cô gái.

Cái “tôi” trữ tình của Nguyễn Bính đã được đẩy cao lên, dám bày tỏ, dám yêu. Nhưng tình cảm đó không táo bạo mà ngược lại rất chân thành, mãnh liệt, đồng thời lại rất tế nhị.

Bằng những vần thơ gần gũi, chân thành, đậm hương vị đồng quê, tác giả đã gieo vào lòng người đọc những tình cảm nhẹ nhàng, tha thiết nhất của những người đang yêu. Bài thơ như một nốt nhạc trong lành và yên bình nhất.

Phân tích bài thơ Tương tư – Mẫu 2

Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trong cuộc đời, tương tư lại thường là nỗi nhớ đơn phương. Người này nhớ, mà đôi khi cứ ngỡ người kia vô tình lắm, chẳng hề biết, chẳng muốn biết rằng mình đang khổ sở vì tương tư. Thực tình, nhớ là hiện thân của yêu : một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu ; một tâm hồn ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn của một trái tim đã ngừng yêu. Cho nên có kẻ nào yêu mà chẳng từng tương tư. Nguyễn Bính cũng thế ! Chàng trai chân quê này tương tư và đã trải đến tận cùng những cung bậc tương tư, nói khác đi, là đã bị mọi cung bậc của tương tư giày vò đến khổ sở.

Yêu nhau, mà xa nhau, tất sẽ nảy sinh nhung nhớ. Nhớ nhung, thực chất, là khát khao được có nhau, gần nhau. Xa cách về không gian và thời gian chính là duyên cớ để tương tư. Vì thế mà trong bản chất tình cảm, tương tư là một khao khát, một nỗ lực vượt không gian và chiến thắng thời gian bằng tinh thần. Không gian, thời gian vô cớ trở thành kẻ thù của những tình nhân bị xa cách. Và đây là những kẻ thù nghìn lần đáng ghét. Bởi trong nỗi tương tư, khoảng cách dù là ngắn cũng trở thành diệu vợi, nghìn trùng ; một khoảnh khắc cũng thành đằng đẵng, thăm thẳm. Đôi khi chỉ tấc gang cũng thành vực thẳm. Thậm chí, với một tình nhân giàu dự cảm thì dầu chưa xảy ra xa cách, đã khắc khoải tương tư rồi :

(Xuân Quỳnh)

Trong bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã nói lên nỗi tương tư nghìn đời của những lứa đôi. Ngay những lời mở đầu đã vẽ ra một nỗi tương tư chan chứa cả cảnh sắc thôn làng :

Chỉ vì có một chàng trai thôn Đoài đang gửi lòng say cô gái thôn Đông mà cuối cùng đã thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Cách nói bóng gió tạo hiệu quả không ngờ là hai miền không gian đang nhớ nhau. Điều này đâu phải vô cớ. Khi người ta tương tư, cảnh vật xung quanh cũng bị cuốn vào nỗi tương tư, không gian bao quanh cũng ngập tràn nhung nhớ. Người ta có nhìn bằng con mắt khách quan nữa đâu ! Cảnh vật nhuốm màu tương tư cả rồi. Câu thứ hai đặc Nguyễn Bính ! Ấy là giọng kể lể. Một câu thơ được viết toàn bằng số từ ! Không gian tương tư thật rõ. Câu bát có xu hướng kéo dài, nó càng dài hơn bởi giọng kể lể và chất đầy những số từ thậm xưng theo lối thành ngữ. Mỗi người đứng ở một đầu câu thơ, thăm thẳm, vời vợi. Giữa họ là một khoảng không diệu vợi. Nỗi tương tư giăng mắc một nhịp cầu “chín nhớ, mười mong”, khởi lên từ đầu này và chấp chới, và mơ mòng tới đầu kia. Kế đó là một sự lí giải :

So sánh mình với giời, ngông là thế mà thấy cũng chấp nhận được. Bởi cả hai có cùng một căn bệnh. Tôi và Giời hoá ra là hai kẻ đồng bệnh. Thế mà chưa hết đâu, cái tôi này còn toan tính hạ thấp trong so sánh đó nữa. “Gió mưa là bệnh của giời”, thì bệnh đó là một thứ tật, một thói hư, giời giở chứng ra – một thứ bệnh nội sinh có sẵn ! Còn “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” thì là căn bệnh mắc phải do “ngoại nhập”. Từ ngày yêu nàng, tôi mới mắc bệnh này. Coi tương tư là một thứ “bệnh”, mới kể lể được những khổ sở của cái tôi mang bệnh. Mà bệnh này đã mắc thì… phi em vô phương cứu chữa. Trong câu thơ, thấy có cái giọng chấp nhận một thực tế, một quy luật tất yếu không cưỡng lại nổi. Cái tôi hiện ra vừa như một tình nhân đắm đuối vừa như một nạn nhân tự nguyện rước bệnh, rước khổ sở vào thân. Có phải khi yêu, lời chân thành nào cũng hoá khôn ngoan thế chăng ? Có phải thế là sự khôn ngoan dễ thương ?

Hình như tương tư thường bắt đầu bằng kể lể, giãi bày, và rồi chẳng mấy ai chịu dừng lại ở đó. Sẽ còn là trách móc, hờn giận, sẽ còn là giận dỗi đơn phương, khát khao đòi hỏi, cũng đơn phương. Nghĩa là bệnh tương tư sẽ mỗi ngày một thêm trầm trọng. Mà “kì” nhất là, cũng một không gian ấy thôi, nhưng khi đã kể lể nỗi khổ của mình – cho mình, thì nó bỗng dài ra vô tận, trái lại, đến khi trách móc, “kể tội đối phương” thì nó lại thu hẹp đến kiệt cùng :

Mở ra, “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông”, tưởng chừng nghìn trùng cách trở. Đến đây, té ra sự cách trở đã hoàn toàn triệt tiêu : tuy hai thôn nhưng thực ra chỉ có một làng. Quái lạ thay là tâm lí tương tư ! Khoảng cách có vậy mà khéo co giãn, biến hoá làm sao !

Nhưng xem chừng, hay nhất vẫn là sự kể lể về thời gian:

Ngày trước, tả mối tương tư Kim – Kiều, Nguyễn Du cũng thấy cái nghịch lí trữ tình của thời gian:

Một ngày thôi mà ngỡ đã ba thu. Thế cũng đã quá ư trầm trọng ! Dẫu sao, đó vẫn là nỗi tương tư được nói bằng giọng người trần thuật, ngoài cuộc. Còn lời thơ Nguyễn Bính vẫn nguyên sự sốt ruột, khắc khoải của người trong cuộc, y như lời lẽ của người đang ngồi bóc lịch đếm từng ngày rề rà chậm chạp trôi qua một cách vô tình, thậm chí như cố tình trêu ngươi vậy ! “Ngày qua ngày lại qua ngày”, câu thơ dịp nhịp 3/3, chia thành hai vế, vế này là sự lặp lại của vế kia theo lối trùng diệp. Chữ “lại” chứa đựng một ngán ngẩm. Vừa hi vọng, vừa như thất vọng. Mỗi ngày mới đến nuôi lên một hi vọng, để đến cuối ngày, hi vọng tàn đi thành vô vọng. Tất cả gợi được nhịp vận hành lặp đi lặp lại rời rã của những ngày đợi chờ, mong mỏi mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng.

Câu thứ hai vẽ ra một người nóng lòng chờ đợi cùng cái cây (nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính thường bộc bạch tâm trạng cùng với một cái cây nào đó. Đây thì chẳng rõ là cây gì. Chỉ biết nó cũng nặng trĩu tương tư ! Hay đó là cây tương tư ?! ). Kẻ tương tư và cái cây ấy có một mối tương giao kì lạ. Thời gian với kẻ tương tư chẳng vô hình. Nó có màu : ấy là màu vàng héo. Mỗi ngày qua đổ lại một dấu vết trên vòm lá. Cái cây khác nào một cuốn lịch thiên nhiên. Hơn thế, cái cây là nhân chứng của mối tương tư, là tri kỉ câm lặng của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư hay là kẻ đồng nạn ? – nạn nhân bởi sự hững hờ của ai kia. Anh đợi em khi cây hãy còn xanh, đến nay cây đã vàng hết cả rồi, vậy mà… Đợi chờ làm cây héo úa, làm người héo hon !

Cái cây kia là hình ảnh khác của anh ! Cái cây kia chính là anh. Tả cảnh ngụ tình là thế ! Phải nói chữ “nhuộm” thật đắt. Cũng viết về sự thay đổi sắc màu trên cây cỏ, khi Thuý Kiều tiễn biệt Thúc Sinh, Nguyễn Du viết:

Chữ “nhuốm” rất động. Nói được sự biến đổi đang diễn ra, chưa hoàn tất. Nó cũng trực tiếp ! Dường như sắc màu này vốn từ cuộc chia li ở câu trên đã bước sang câu dưới, đã phổ vào cảnh vật nên mới “nhuộm”. Nó là sự lây lan từ tinh thần con người xâm nhập vào cây cỏ. Còn chữ “nhuộm” của Nguyễn Bính gợi được thời gian. Bởi xem chừng nó tĩnh hơn. Quá trình diễn biến đã hoàn tất : lá xanh đã biến thành lá vàng rồi ! sắc thái kể lể đậm hơn. Thời gian đợi chờ của anh đằng đẵng, dằng dặc đến nồi đủ đổ nhuộm một cây xanh thành hẳn cây lá vàng cả rồi ! Lời thơ vì thế mà khổ sở, khắc khoải bội phần.

Có phải tương tư là một gánh nặng đơn phương, càng nặng nề bao nhiêu, càng nghĩ “đối phương” vô tình bấy nhiêu. Vì thế mà cung bậc tương tư cứ chuyển biến rất tự nhiên từ kể lể, thở than sang trách móc ? Mà lời trách móc thì, ôi chao, đầy một lối “quy kết” khó mà “chạy tội” được :

Vẫn cái “luận điệu” dễ ghét ấy. Kể lể nông nỗi mình thì cũng một sự xa cách kia mà hoá muôn trùng, thăm thẳm. Còn ở đây thì “phủ định sạch trơn” : không hề có xa cách – không có cách trở đò giang, không phải không có đường, mà thậm chí còn gần lắm, chỉ có một đầu đình thôi. Tất cả chỉ do em hờ hững chứ chả có lí do khách quan gì ! Người đâu có người mỗi lời lại một vận vào người ta thế có “khiếp” không ! Nhưng không có luận điệu ấy thì làm sao có thể “quy chụp” người ta vô tình được ! Sao những trái tim yêu lại có thể “ranh mãnh” một cách hồn nhiên đến thế ! Vậy đấy, trong nỗi tương tư, trái tim thường cất lên những lời buộc tội thật dễ thương. Và khi “người ta” đã nhân danh nỗi khổ vì tương tư, thì nghe những lời buộc tội “khó chịu” đến đâu cũng đành mà “chịu khó” thôi, nghĩa là cũng thật dễ chịu thôi, chẳng phải thế sao ?

Trách chưa hết đã lại hờn:

Và cuối cùng thì khẳng định đinh ninh:

Tất cả đã sẵn sàng và đang nóng lòng chờ đợi. Chỉ còn em nữa thôi ! Thôn Đoài đã hẳn là nhớ thôn Đông, điều ấy không còn nghi ngờ bàn cãi nữa rồi. Vậy thì, cau thôn Đoài còn biết nhớ giầu không thôn nào nữa đây. Câu thơ chứa trong nó một lô gích thật nguy hiểm!

Vậy là, trong thẳm sâu tâm lí, tương tư chính là khao khát hạnh phúc lứa đôi, khao khát thành đôi thành lứa. Khao khát ấy tràn ra trong giọng điệu khi kể lể phân trần, khi giận hờn trách móc. Khao khát ấy còn ký thác vào những cặp đôi giấu mình suốt dọc bài thơ. Ban đầu những đồi ấy còn xa xôi, càng về sau càng xích lại gần. Lần đầu, 1990, khi viết cho sách Để dạy tốt Văn 11 dành cho giáo viên, tôi mới chỉ nhận ra một nửa số cặp ấy. Giờ thống kê kĩ hơn, mới thấy nhiều cặp đôi hơn ẩn náu khắp bài thơ :

Và cuối cùng là :

Vòng vo, xa gần, cuối cùng vẫn cứ tụ lại ở điều cần nhất, khắc khoải nhất : ấy là trầu – cau! Mà trầu cau là chuyện nhân duyên. Điểm truyền thống rất nổi bật ở Nguyễn Bính là quan niệm luyến ái. Là một nhà thơ mới, nhưng Nguyễn Bính không có cái chủ trương yêu hiện đại với cái tình gần gũi, cái tình xa xôi, cái tình trong giây lát, cái tình ngoài thiên thu như điệu sống thời thượng bấy giờ. Các nhà thơ hiện đại chỉ quan tâm đến tình, ít quan tâm đến duyên. Nguyễn Bính quả là chân quê khi coi trọng nhân duyên. Yêu đương với chàng thi sĩ này dứt khoát phải gắn liền với chuyện trăm năm, với hôn nhân. Nghĩa là với cau – trầu. Thực ra, những cặp hình ảnh kia vẫn chưa thành đôi hẳn, mà mới chỉ ở dạng tiềm năng, vẫn còn để ngỏ và chờ đợi. Vâng, đợi chờ một vị “cứu tinh” duy nhất là Em. Em đến, trầu cau sẽ thắm lại và tất cả các cặp còn hờ kia sẽ kết thành đôi. Bệnh tương tư sẽ được cứu chữa ! Nỗi khổ sở sẽ hết giày vò ! Vân vân và vân vân.

Nhưng em biết không, khi tất cả những điều kia đã thành, thì cũng là lúc nỗi tương tư bắt đầu… bị hoá giải.

Phân tích bài thơ Tương tư – Mẫu 3

Nguyễn Bính là nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám. Giữa những giọng điệu mới lạ, thơ Nguyễn Bính vẫn giữ được âm hưởng gần gũi với ca dao dân ca, giản dị hồn nhiên mà ngọt ngào, thắm thiết. Tương tư in trong tập Lỡ bước sang ngang, xuất bản năm 1940 tại Hà Nội. Tập thơ này đã mang lại tiếng vang cho tác giả và dấy lên trong đông đảo người đọc một phong trào thuộc thơ, yêu thơ Nguyễn Bính. Bài thơ Tương tư nói lên tâm trạng khắc khoải chờ mong của một chàng trai đang yêu với tình yêu đơn phương không được đáp đền. Mối tương tư ấy được đặt vào khung cảnh nông thôn với dáng dấp một mối tình chân chất như trong ca dao và mang hương vị đồng quê mộc mạc.

Tâm lí của những kẻ đang yêu là luôn muốn được gần gũi bên nhau. Bởi vậy, một ngày không gặp dài bằng ba thu. Những người đang yêu nhớ nhau mà không gặp được nhau thì sinh ra tương tư. Thường là một người thương nhớ một người mà không được đền đáp lại, trường hợp này trong văn chương mới gọi là tương tư. Lịch sử tình yêu xưa nay đã ghi nhận bao trái tim Trương Chi tan nát bởi mối hận tình. Chàng trai trong bài thơ này cũng tương tư nhưng có phần nhẹ nhàng hơn bởi tình yêu chưa đặt được cơ sở rạch ròi.

Bốn câu thơ đầu bày tỏ nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu. Chàng trai không giấu là mình tương tư:

Mối tương tư ấy được thể hiện bằng những hình thức quen thuộc trong ca dao xưa, ở đây, lối hoán dụ nghệ thuật, thủ pháp nhân hóa và thành ngữ dân gian kết hợp với nhau hài hòa, tự nhiên: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, rồi bệnh của giời, bệnh của tôi. Dường như đất trời cũng chia sẻ nhớ mong, dự phần tương tư với con người.

Tôi yêu nàng, tôi tương tư, nào có khác chi trời lúc gió lúc mưa. Tâm trạng tương tư của chàng trai cũng tự nhiên như quy luật của trời đất vậy.

“Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện cùng với những “cái tôi” khác trong Thơ mới lúc bấy giờ; có điều nó mang màu sắc độc đáo bởi nó thiết tha, chân thành, gần gũi với cuộc đời bình dị của người dân quê. Nó có thôn Đông, thôn Đoài, có chín nhớ mười mong, có trầu, có cau. Tưởng như một đôi trai gái đồng quê mới bén duyên nhau bên hàng rào dâm bụt, bên giậu mồng tơi, vừa rõ ràng mà vừa mơ hồ. Nhân vật tôi thì đã rõ, còn nhân vật nàng thì vẫn thấp thoáng, vu vơ.

Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ nói thật là mình đang tương tư thì đến ba khổ thơ sau, nhà thơ trách người mình yêu sao quá hững hờ:

Vậy là chàng trai đang nhớ thật, đang tương tự thật, nhưng khổ tâm ở chỗ nhớ thương có đi mà không có lại. m điệu thơ lục bát uyển chuyển, mượt mà rất hợp với cách thể hiện dung dị: nào là hai bên chung lại một làng, bên ấy, bên này; nào là Cách nhau có một đầu đình; Có xa xôi mấy mà tình xa xôi. Trách móc rồi tự bộc bạch là mình Tương tư thức mấy đêm rồi và ước mong: Bao giờ bến mới gặp đò, Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau? Trách, hỏi liên tiếp, dồn dập mà người ta vẫn hững hờ, xa xôi. Ở đời có những tình yêu như thế bởi đối tượng mình yêu đến tương tư kia lại mơ hồ, vô định. Trách và hỏi đều rơi vào khoảng trống khiến cho nỗi tương tư càng trở nên xót xa, vô vọng.

Vẫn là bên ấy, bên này cách biệt. Ngày qua ngày lại qua ngày, Lá xanh nay đã thành cây lá vàng. Thời gian cứ lạnh lùng trôi mà bên ấy vẫn bằn bặt bóng chim tăm cá. Hỏi làm sao bên này chẳng chờ đợi đến hao mòn, tàn úa? Mơ làm chi đến chuyện bao nhiêu ngói bấy nhiêu tình hay chuyện tam tứ núi, ngũ lục sông?

Thế là đã rõ: Tất cả đều vu vơ, chỉ có một điều rất thật là nỗi buồn da diết của chàng trai đang tương tư. Yêu người mà chẳng được người yêu, nhớ mong mà chẳng gặp. Một mối tình như thế sẽ kết thúc ra sao? Chàng trai trở lại với ước mơ thầm kín về một cuộc hôn nhân tốt đẹp cùng nỗi băn khoăn, khắc khoải của lòng mình:

Đến lúc này thì không cần vòng vo, ẩn giấu chi nữa, chàng trai không còn xưng tôi mà mạnh dạn xưng là anh và gọi nàng bằng em. Cũng chẳng cẩn bóng gió xa xôi: Bao giờ bến mới gặp đò hay Tương tư thức mấy đêm rồi mà nói thẳng đến chuyện hôn nhân:

Thử hình dung cau ấy, trầu này mà kết thành một mâm xinh đẹp thì thật tà đúng nghi lễ cưới xin. Nhưng trớ trêu làm sao: trầu thì ở nhà em, cau lại ở nhà anh. Em ở thôn Đông, anh ở thôn Đoài: Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông. Vậy: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? Như vậy là tương tư chưa đi quá nỗi nhớ và nỗi nhớ vẫn chỉ là một bên, một chiều. Tuy có nhích lên một chút cho thân mật hơn trong cách xưng hô anh và em, nhưng rồi lại quay về nơi ẩn náu cũ: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông, nghĩa là chẳng tiến lên được một bước nào. Mon men tới chuyện trầu cau nhưng vẫn không thoát khỏi nỗi buồn bởi nhớ nhung người ta mà chẳng được người ta đền đáp lại. Cho nên đành chấm dứt nỗi sầu bằng một câu hỏi tu từ: Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? “Cái tôi” hiện đại bộc lộ một cách tự nhiên dưới hình thức quen thuộc của ca dao xưa: thôn Đoài, thôn Đông… và nhờ đó mà nỗi đau dường như vợi bớt. Cho nên nỗi tương tư cũng mới chỉ đến mức chín nhớ mười mong hoặc thức mấy đêm rồi, kể cả sự vô vọng dường như kéo dài dằng dặc trong không gian và thời gian kia cũng chỉ là chuyện bến chưa gặp đò, hoa chưa gặp bướm mà thôi.

Bài thơ là một mảnh hồn của nhà thơ, là “cái tôi”mang đậm phong cách Nguyễn Bính: giản dị, hồn nhiên, dân dã mà không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Nhà thơ nói chuyện tương tư, kì thực là nói tới khao khát tình yêu và hạnh phúc. Qua đó khẳng định “cái tôi cá nhân” với quyền được sống đúng nghĩa của nó. Tương tư là một trong nhiều dẫn chứng chứng minh cho nhận xét tinh tế của Tô Hoài: Nguyễn Bính là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê.

Phân tích bài thơ Tương tư – Mẫu 4

Tác giả Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ đi tiên phong và tiêu biểu cho phong trào thơ mới. Tuy nhiên khác với các nhà thơ cùng thời chịu ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp thì thơ của Nguyễn Bính lại thường đậm đà truyền thống dân tộc, văn hóa dân gian, gắn bó với sự bình dị, mộc mạc của đồng quê. Bài thơ “Tương tư” của ông nằm trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” là một bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của ông.

Nhan đề bài thơ là “Tương tư” ám chỉ một trạng thái của con người, tương tư có nghĩa là nhớ nhung, nhưng lại không đơn thuần là nhớ nhung mà còn chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau nữa. Sự tương tư thường bắt đầu với những con người đang yêu, và trong bài thơ này, nhân vật trữ tình tương tư là một chàng trai quê chân thật, chất phác. Diễn biến trong tâm trạng của chàng trai chính là mạch cảm xúc của bài thơ, trong bốn câu thơ đầu ta cảm nhận được nỗi nhớ mong khắc khoải của kẻ đang yêu:

Nỗi nhớ ấy được tác giả thể hiện bằng những hình thức quen thuộc của ca dao xưa, có thể thấy hình ảnh hoán dụ “thôn Đoài” và “thôn Đông” chính là con người, và chính là chàng trai của thôn Đoài đang nhớ tới người mình yêu ở thôn Đông. Rồi lại đong đếm cụ thể nỗi nhớ mong ấy bằng thành ngữ dân gian “chín nhớ mười mong”. Có thể thấy nỗi nhớ ấy đã quá đong đầy, chan chứa. Hình ảnh ví von đầy hài hước “nắng mưa” là bệnh của trời đó là lấy cái quy luật của tự nhiên, của trời đất để thể hiện cho sự tương tư trong tình yêu cũng là một lẽ tự nhiên như thế. Tưởng như đó là một đôi trai gái đã bén duyên nhau, nhưng thực ra lại vừa rõ ràng vừa mơ hồ, tình cảm của chàng trai thì đã rõ, còn cô gái thì vẫn thấp thoáng, vu vơ. Bởi thế mà trong ba khổ thơ sau, lời hờn trách của chàng trai được bộc lộ ra, trách sao người mình yêu quá hững hờ:

Advertisement

Nỗi nhớ tương tư của chàng trai đang dần rơi vào nỗi khổ tâm, bởi có thương đi mà chẳng có thương lại. Sự trách móc nhẹ nhàng sao gần nhau chỉ cách nhau có “một đầu đình” mà bên ấy lại chẳng sang bên này, để cho bên này chờ mong mòn mỏi. Trách móc rồi lại tự bộc bạch rằng vì tương tư về người mình yêu mà đã thức trắng bao đêm, chỉ mong ước được gặp người mình yêu, thế nhưng càng nhớ, càng trách, càng hỏi thì người ta vẫn cứ hững hờ, xa xôi. Tình yêu như thế ở đời không phải ít, một bên thì yêu đến si tình, tương tư đến khổ tâm còn một bên lại mơ hồ, vô định.

Vậy nên có trách móc hay tương tư cũng đều rơi vào khoảng không, không ai cảm thấu, càng khiến cho nỗi tương tư thêm xót xa, chua chát. Sự cách biệt giữa bên ấy bên này ngày càng xa xôi, thời gian đã dài đằng đẵng “ngày lại qua ngày” đến nỗi la xanh nhuộm chuyển thành lá vàng, thế nhưng thời gian trôi lạnh lùng như chính sự lạnh lùng của bên ấy. Hỏi cứ như vậy làm sao bên này lại chẳng chờ đợi đến héo mòn, khô úa.

Như vậy cho đến những khổ thơ này ta đã rõ: tất cả đều là từ một phía, chỉ là nỗi tương tư chân thành của chàng trai không được đáp lại. Yêu người nhưng chẳng được người yêu lai, nhớ mong nhưng chẳng được gặp gỡ, bởi người ta cũng chẳng muốn gặp mình, chàng trai lại đành quay lại với chính mình, trở lại với niềm mơ ước thầm kín của mình về một mối nhân duyên tốt đẹp:

Chàng trai đã mạnh dạn xưng “anh” và gọi người mình yêu là “em”, chẳng cần bóng gió, vòng vo xa xôi nữa mà đi thẳng tới vấn đề muốn được kết tóc se duyên, muốn được ở bên cạnh người mình yêu thương. Thế nhưng thật trớ trêu thay chàng trai vẫn không thoát khỏi được nỗi nhớ mong chẳng được đền đáp, vẫn là câu hỏi không ai hồi đáp.

Qua bài thơ “Tương tư” chúng ta thấy được một mảnh hồn thơ của Nguyễn Bính trong đó, đó chính là cái giản dị, hồn nhiên mà dân giã, không kém phần thơ mộng, lãng mạn. Chỉ là nói chuyện tương tư nhưng sâu thẳm là nhà thơ đang nhắc tới khát khao tình yêu và hạnh phúc.

Phân tích bài thơ Tương tư – Mẫu 5

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét Nguyễn Bính rằng:” Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường”. Đúng vậy, con người ấy sống trong từ câu thơ, từng nỗi nhớ da diết. Nỗi nhớ ấy thể hiện rõ nhất trong bài thơ Tương Tư trích từ tập Lỡ Bước Sang Ngang- một tập thơ tiêu biểu của ông trước cách mạng.

Ai trong chúng ta đã một lần ” tương tư” sầu nhớ chắc hẳn sẽ thấu hiểu cảm xúc ấy. Tương tư là thương, là nhớ, là bồi hồi khi nghĩ về hình bóng yêu thương. Nó là phức hợp cảm xúc, dậy lên như từng đợt sóng trong lòng:

Mở đầu khổ thơ là nỗi nhớ nhưng là nỗi nhớ gián tiếp qua không gian. Đó là “thôn Đoài” nhớ “thôn Đông”, nỗi tương tư giăng mắc khắp không gian bởi lối hoán dụ quen thuộc trong ca dao xưa. Kín đáo mà không kém phần tâm tình tha thiết và sâu sắc hơn nữa tác giả lấy chuyện nắng chuyện mưa, mượn “căn bệnh” vốn dĩ của trời để trải lòng mình. Tác giả coi “tương tư” là một căn bệnh đã tiềm ẩn trong chính con người mình, cũng rất đỗi bình thường như bao chuyện khác, giống như quy luật của thiên nhiên tạo hóa vậy. Bốn câu thơ ấy mở ra nỗi nhớ khiến người đọc thích thú tò mò về mối tương tư của anh chàng thôn Đoài và cô nàng thôn Đông ngày ấy

Đến những câu thơ tiếp theo, ta như nghe thấy lời trách móc nhẹ nhàng và rất kín đáo thôi. Trách cô gái hững hờ, trách cô gái kia sao lại vờ như không biết gì về nỗi lòng ta:

Nhịp thơ nhanh, câu hỏi dồn dập của nhân vật trữ tình hỏi người thương của mình. Vì sao nàng chẳng sang? Hai thôn ấy chung một làng mà sao nghe cách xa đến vậy, nếu mà nhớ người ta thì phải tìm đường mà sang thăm người ta chứ đằng này lại còn trách người ta không sang với mình. Cũng không biết được rằng có phải cô gái không sang không hay là tại vì nỗi tương tư kia khiến cho người tương tư thấy thời gian quá dài, và không gian thật gần mà trở nên xa xôi quá. Một khi con người ta tương tư, cũng hay nghĩ rằng nửa kia không quan tâm, vô tâm vô tình lắm. Rồi cứ thế ” ngày qua ngày lại qua ngày” điệp từ ngày lặp lại hai lần trong một câu thơ kết hợp với hai từ “qua, lại” khiến ta cảm thấy thời gian chờ đợi đang dần trôi đi thật chậm và thật đều, dài tựa ba thu. Thời gian làm cảnh vật trở nên thiếu sức sống, lá xanh cũng đã bị thời gian nhuộm vàng mà người thương vẫn không sang thăm. Câu hỏi cất lên vừa thương nhớ vừa có một chút trách móc nửa kia của mình nhưng nó vang lên mãi không tìm thấy lời đáp. Hình ảnh bến đò trong những câu thơ tình lại hiện lên trong tương tư của Nguyễn Bính, đó là ước muốn được ở bên nhau, gắn bó khăng khít.

Càng về cuối, những câu thơ vang lên như một ước nguyện với một tình yêu viên mãn vững bền và hạnh phúc:

Hình ảnh trầu cau thể hiện ước nguyện được ở bên nhau của nhà thơ với người mình thầm thương trộm nhớ. Trầu cau từ xưa là thứ không thể thiếu trong tập tục cưới hỏi và nó là hình tượng thể hiện mối tình trăm năm hạnh phúc. Giàn giầu như đang chờ đợi hàng cau đến để têm thành miếng trầu kết duyên vợ chồng trăm năm. Từ nỗi tương tư da diết của nhà thơ đã biến thành mong muốn được nên duyên một đời. Miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu như gợi ta nhớ đến sự tích trầu cau hay truyện cổ tích Tấm Cám xưa. Nét mộc mạc giản dị trong từng miếng trầu ấy, đậm đà tình quê. Câu thơ “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” một lần nữa vang lên tao hiệu ứng đầu cuối tương ứng, tiếng yêu như da diết khôn nguôi cho đến cuối bài. Như vậy mở đầu bằng nỗi nhớ thì cuối cùng nhà thơ cũng kết thúc bằng một nỗi nhớ. Trách móc hờn giận mà tràn đầy tình ý, nhẹ nhàng và sâu lắng.

Tương Tư của Nguyễn Bính là một trong những bài thơ góp phần tạo nên tên tuổi của ông và nó làm giàu cho phong trào thơ mới nói riêng và nên thơ ca Việt Nam nói chung. Đọc bài thơ ta biết, nỗi nhớ ấy sẽ còn vọng mãi qua bao thời đại thi ca.

Văn Mẫu Lớp 12: Tổng Hợp Mở Bài Vợ Chồng A Phủ Hay Nhất (94 Mẫu) Mở Bài Vợ Chồng A Phủ

Mở bài Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài tuyển chọn 94 mẫu mở bài siêu hay, đạt điểm cao nhất của các bạn học sinh giỏi lớp 12. Thông qua 94 mở bài Vợ chồng A Phủ các bạn biết cách giới thiệu vấn đề cần bàn luận trong bài, làm cơ sở cho phần thân và kết bài. Đồng thời khêu gợi, tạo không khí cho người đọc với vần đề cần nêu.

Nếu ai đó đã từng một lần đặt chân đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hòa chìm trong sương, đến với những cảnh sắc tươi đẹp nơi núi rừng hùng vĩ trữ tình, đến với cuộc sống tươi vui của những người con nơi núi rừng hẳn sẽ không nghĩ rằng, những con người nơi đây đã từng khổ cực trăm bề. Cảnh đói nghèo cơ cực cùng sức nặng cường quyền và thần quyền nơi đây thời phong kiến xưa đã đè nặng lên đôi vai những số phận bất hạnh bé nhỏ. Nhưng đằng sau tất cả vẫn là sức sống mãnh liệt và niềm khát khao có được tự do, có được. Và nhà văn Tô Hoài đã phản ánh những điều ấy qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ, và được thể hiện rõ nét hơn qua ..….(dẫn dắt theo yêu cầu đề bài)……hình tượng nhân vật A Phủ (Mị).

Với trên 200 đầu sách được xuất bản, Tô Hoài là một trong những nhà văn có sức sáng tạo dồi dào và có sức ảnh hưởng nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là người am hiểu sâu sắc về phong tục tập quán của các vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của ông là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống và con người vùng Tây Bắc, trong đó tiêu biểu nhất truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh sống động đầy chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới sự thống trị của phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống mãnh liệt và niềm tin, khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua …. (tùy thuộc vào đề bài yêu cầu để dẫn dắt).

Tô Hoài là một cây bút thực lực đầy sáng tạo và phong phú của nền văn học Việt Nam cả trước và sau cách mạng tháng tám, viết văn từ khi tuổi đời còn rất trẻ, đồng thời sớm trở nên nổi tiếng với các bộ truyện dành cho thiếu nhi. Sau khi tham gia vào cách mạng, Tô Hoài bắt đầu chú ý đến những vấn đề hiện thực xã hội và cuộc sống của con người trong những năm tháng đất nước quằn quại đau thương nhất. Tuy cùng viết về đề tài người nông dân dưới chế độ cũ, thế nhưng giọng văn của Tô Hoài có một cái gì đó rất khác, ngập tràn yêu thương và dịu dàng. Đi đến đâu Tô Hoài cũng có một lòng gắn bó tha thiết với từng mảnh đất và con người của quê hương, ngoài Hà Nội thì có lẽ miền Tây Bắc là nơi mà ông gửi gắm lại nhiều tình cảm yêu thương nhất. Điều đó được bộc lộ rõ nét thông qua bộ 3 truyện Tây Bắc, trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm được được biết đến nhiều hơn cả.

“Tinh thần và sức mạnh bất khuất của cả nước được nuôi dưỡng và phát triển trong những cánh rừng đại ngàn Tây Bắc. Sống với những ngọn thác dữ dội, những núi đá hùng vĩ, những vạt rừng âm u là các dân tộc thiểu số anh em. Đời sống sinh hoạt của họ khác nhau nhưng tinh thần kháng Pháp thì là một”. Đó là lời chia sẻ của Tô Hoài về chuyến đi thực tế lên Tây Bắc – nơi để lại cho ông nhiều điều để thương để nhớ. Những cảm xúc ấy kết tinh lại thành tập “Truyện Tây Bắc” mà linh hồn là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm là bức tranh sinh động về hiện thực của những năm tháng tối tăm trong cuộc sống của đồng bào dân tộc vùng cao. Bằng lăng kính đầy tình yêu thương, lòng nhân ái, tác giả đã thể hiện được một chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ, tích cực – điều chứa từng có trên diễn đàn văn chương Việt Nam.

Cùng sinh năm 1920 và đều là hai cây bút văn xuôi nổi tiếng, nhưng nếu Kim Lân là nhà văn “quý hồ tinh bất quý hồ đa” thì Tô Hoài lại có bút lực dồi dào không ngừng nghỉ. Đến năm 90 tuổi, ông vẫn không ngừng viết văn và để lại nhiều tác phẩm ấn tượng. Nổi bật trong số đó là “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm xoay quanh không khí và văn hóa của đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam. Cả tác phẩm là một cuộc trỗi dậy mạnh mẽ về tinh thần của người dân lao động khốn khổ chống lại áp bức bất công của giai cấp thống trị miền núi trước Cách mạng tháng Tám.

Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đặc sắc của Tô Hoài cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật, tác phẩm phản ánh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Nếu chỉ dừng lại ở tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký”, nhà văn Tô Hoài đã rất nổi tiếng, đã làm được cái việc mà như nhà văn Nam Cao nói là “để đời” đối với sự nghiệp của bất cứ người cầm bút nào. Thế nhưng, nhà văn Tô Hoài không dừng lại chú “dế mèn” mà còn đi xa hơn. Ra đi ở tuổi 95, ông đã để lại cho đời hơn 100 đầu sách. Nếu chỉ tính về mặt số lượng thì mấy ai làm được như ông? Còn nói về khía cạnh nghệ thuật, bảo rằng Tô Hoài đi được xa hơn cũng chính bởi khi nghĩ đến ông, người ta cũng nhớ ngay “Vợ chồng A Phủ” – truyện ngắn đã được dựng thành phim và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho văn học hiện thực dân tộc miền núi mà Tô Hoài đã cống hiến.

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “Ổ chuột”, “Dế mèn phiêu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”… Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.

Với “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài không chỉ đưa người đọc đến và khám phá vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên vùng Tây Bắc, được đắm say trong những tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài, mà còn mang đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc khác nhau khi theo dõi hành trình giải thoát khỏi những đau khổ, đọa đày của nhân vật Mị. Dưới chế độ phong kiến miền núi và những hủ tục lạc hậu, người nông dân nghèo như Mị, A Phủ không chỉ bị chà đạp, bóc lột bởi cường quyền mà còn bị ràng buộc, trói chặt lại bởi một thứ thần quyền vô hình. Thế nhưng, dù bị vây hãm, dù bị giam giữ trong bóng tối của đau khổ, Mị hay A Phủ đều mang trong mình một sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt để rồi chính sức sống, niềm khát khao tự do ấy đã giúp Mị vùng lên giải thoát cho A Phủ khỏi cái chết, đồng thời cũng tự giải thoát cho chính bản thân mình.

Vợ chồng A Phủ là tác phẩm nổi bậc nhất trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm kể về số phận đáng thương và cuộc sống vô cùng khắc nghiệt của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra chốn Hồng Ngài. Dù bị đày đọa đến kiệt quệ cả tinh thần lẫn thể xác nhưng nỗi khổ đau ở nhà thống lí không thể nào giết chết được sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong nhân vật Mị. Trong đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống ấy có dịp trỗi dậy mạnh mẽ.

Vợ Chồng A phủ là tác phẩm hay nhất nói về con người và đất nước vùng cao Tây Bắc. Qua ngòi bút của Tô Hoài ta thấy được nỗi khổ đau và tủi nhục của các cô gái khi bị “ ép duyên” và sự áp bức của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Có nhiều tuyến nhân vật chính và phụ trong tác phẩm như A Phủ, A Sử, thống lí Bá Tra… nhưng Mị vẫn là nhân vật trung tâm của tác phẩm và tâm trạng, hành động, suy nghĩ của Mị được bộc lộ rõ nét nhất qua cảnh Mị trong đêm tình mùa xuân.

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn được nhà văn Tô Hoài viết vào năm 1952 được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) được lấy cảm hứng từ một sự kiện có thật khi chính nhà văn Tô Hoài đã được sống và chứng kiến chính cuộc sống của những người dân nghèo nơi vùng cao xa xôi này. Nhà văn Tô Hoài đã thấy được cảnh những số phận con người biến thành nô lệ bị chế độ địa chủ cường hào thống lí áp bức bóc lột khiến sống không bằng chết. Hệ thống nhân vật mà Tô Hoài xây dựng nên cũng là những số phận tiêu biểu cho những tầng lớp tiêu biểu trong xã hội xưa chính là thống lí Pá Tra – địa chủ giàu có nhưng tàn ác, Mị và A Phủ – những người nông dân lao động hiền lành nhưng phải chịu đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần.

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn qua diễn biến tâm trạng Mị và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật này qua đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến. Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.

Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn hân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức manh phúc sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hối din của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hối sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm tình mùa xuân quyến rũ.

Đề tài Tây Bắc in đậm trong sự nghiệp văn chương của Tô Hoài: “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”,”Họ Giàng ở Phìn Sa”… Truyện “Vợ chồng A mang ý nghĩa như một “chiến công” của nhà văn Hà Nội này khi theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952). Truyện kể về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài trong nhà thống lí Pá Tra và khi làm chiến sĩ du kích ở căn cứ Phiềng Sa. Qua đó, tác giả nói lên nỗi thống khổ sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm tham gia kháng chiến để giành lấy tự do, tình yêu và hạnh phúc.

Một trong những thành công tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Ngòi bút nhà văn thật tinh tế, sâu sắc trong việc miêu tả diễn biến tâm lí, sức sống tiềm tàng và sự biến đổi số phận của nhân vật. Đó là Mị – người phụ nữ tưởng chừng như đã cam chịu số phận, không còn sức sống và lối thoát nhưng trong hoàn cảnh có thể, Mị vẫn vươn lên làm chủ cuộc đời mình. Và cái gì đã khiến bên trong “con rùa” câm lặng ấy bùng lên khát vọng sống, khát vọng yêu, khát vọng được quyền làm người cho ra một kiếp người, chính là đêm tình mùa xuân trở về trên rẻo cao.

Phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật luôn là một thử thách đối với bất cứ tác giả nào. Không phải ai cũng có cái biệt tài đi miêu tả tâm lí nhân vật một cách tường tận và chân thực. Và Tô Hoài chính là một trong số ít những tác giả có biệt tài phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật với sự phát triển tâm lý hết sức logic, tự nhiên. Sự phát triển tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân chính là một ví dụ điển hình.

Tô Hoài được biết đến không chỉ là cây bút của những câu chuyện loài vật mà ông còn được biết đến là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ, đặc biệt là sau cách mạng ngòi bút của ông tập trung nhiều hơn vào số phận của những người nông dân Tây Bắc. Với tài năng, sự cần mẫn của mình ông đã tạo nên những tác phẩm để đời và một trong những số đó là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm sáng lên là nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, luôn khát khao hạnh phúc, được thể hiện rõ nhất trong đêm tình mùa xuân.

Văn học Việt Nam đánh dấu sự thành công của nhiều tác giả viết truyện ngắn như Kim Lân, Năm Cao, Vũ Trọng Phụng,.. Đặc biệt ,Tô Hoài là tác giả tiêu biểu với phòng cách viết độc đáo, mỗi tác phẩm của ông đều cho thấy tài năng bậc thầy trong việc khai thác tâm lý nhân vật. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là thành công rực rỡ của ông trong sự nghiệp sáng tác của đời mình, bằng ngòi bút điêu luyện ông đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm hồn nhân vật. Đặc biệt, trong đêm tình mùa xuân, những diễn biến tâm lý và hành động của nhân vật Mị được thể hiện rất chi tiết, cụ thể giàu sức gợi.

Với trên 200 đầu sách, Tô Hoài hiện là một trong những nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc, tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua nhân vật (Mị hoặc A Phủ)

Nếu ai từng một lần đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hòa chìm trong sương, đến với những phong cảnh núi rừng hùng vĩ trữ tình, đến với cuộc sống tươi vui của những đứa con nơi núi rừng hắn không nghĩ rằng, những con người nơi đây từng khổ cực trăm bề. Cảnh đói nghèo cơ cực cùng sức nặng cường quyền và thần quyền đè nặng lên đôi vai những số phận bé nhỏ. Nhưng đằng sau tất cả vẫn là sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ. Và Tô Hoài đã phản ánh những điều ấy qua hình tượng nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.

Nếu chỉ dừng lại ở tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký”, nhà văn Tô Hoài đã rất nổi tiếng, đã làm được cái việc mà như nhà văn Nam Cao nói là “để đời” đối với sự nghiệp của bất cứ người cầm bút nào. Thế nhưng, nhà văn Tô Hoài không dừng lại chú “dế mèn” mà còn đi xa hơn. Ra đi ở tuổi 95, ông đã để lại cho đời hơn 100 đầu sách. Nếu chỉ tính về mặt số lượng thì mấy ai làm được như ông? Còn nói về khía cạnh nghệ thuật, bảo rằng Tô Hoài đi được xa hơn cũng chính bởi khi nghĩ đến ông, người ta cũng nhớ ngay “Vợ chồng A Phủ” – truyện ngắn đã được dựng thành phim và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho văn học hiện thực dân tộc miền núi mà Tô Hoài đã cống hiến.

“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được.

Tô Hoài – nhà văn của người dân miền núi. Những năm tháng lặn lội, thâm nhập vào cuộc sống của con người vùng cao đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn nhà văn. Những bản làng chìm trong sương với những người dân chân chất, thật thà . Những con người sống trong cảnh đời cơ cực đầy những bất công dưới xã hội cũ nhưng lòng vẫn cháy không nguôi khát vọng sống mạnh mẽ tựa như sức sống vững vàng của núi, của rừng. Phẩm chất tốt đẹp đó của con người vùng cao được Tô Hoài phản ánh qua khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị – nhân vật chính trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ vào đêm tình mùa xuân rộn ràng của núi rừng Tây Bắc.

Tô Hoài gắn bó và có vốn am hiểu sâu sắc về con người, văn hóa của vùng đất Tây Bắc, bởi vậy Tây Bắc cũng trở thành nỗi nhớ, niềm thương trong các sáng tác của ông. Một trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất Tô Hoài viết về vùng đất, văn hóa và con người Tây Bắc là “Vợ chồng A Phủ”, từ câu chuyện về cuộc sống và số phận của một cặp vợ chồng người H’Mông Mị và A Phủ, nhà văn đã mang đến cho người đọc những hình ảnh chân thực về cuộc sống đau khổ, nhiều bất công của người nông dân nghèo dưới sự cai trị hà khắc của cường quyền và thần quyền, đồng thời cũng cho thấy được sức sống mạnh mẽ tiềm tàng bên trong tâm hồn họ.

“Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc rút từ tập “Truyện Tây Bắc” của nhà văn Tô Hoài. Truyện kể về cuộc sống, số phận của Mị, A Phủ dưới sự chuyên chế, bạo tàn của phong kiến miền núi, họ không chỉ bị đối xử bất công mà còn bị tước đoạt tự do, hạnh phúc. “Vợ chồng A Phủ” đặc biệt thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị – một cô gái trẻ trung, yêu đời nhưng bị buộc trở thành “con dâu trừ nợ” cho gia đình thống lí. Qua hành trình đi từ đau khổ đến hạnh phúc của Mị, Tô Hoài đã ca ngợi vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng bên trong những con người nhỏ bé.

Với “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã đưa người đọc đến và khám phá vẻ đẹp thiên nhiên vùng Hồng Ngài, được đắm say trong những tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân mà còn mang đến cho người đọc bao cung bậc cảm xúc khi theo dõi hành trình giải thoát khỏi những đau khổ, đọa đày của Mị. Dưới chế độ phong kiến miền núi, người nông dân nghèo như Mị, A Phủ không chỉ bị chà đạp, bóc lột bởi cường quyền mà còn bị ràng buộc bởi một thứ thần quyền vô hình. Thế nhưng, dù bị vây hãm trong bóng tối của đau khổ, Mị hay A Phủ đều mang trong mình một sức sống mạnh mẽ, để rồi chính sức sống, niềm ham sống ấy đã giúp Mị vùng lên giải thoát của A Phủ khỏi cái chết đồng thời giải thoát cho chính bản thân mình.

Nhà văn Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng trước Cách Mạng Tháng Tám. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, trong đó Tây Bắc là một điển hình sâu sắc nhất. Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, Tô Hoài đã làm nên bức tranh hai màu sáng tối, mà đứng đầu hai thái cực ấy chính là cha con thống lý Pá Tra và vợ chồng A Phủ.

Tô Hoài được coi là cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại với sức sáng tạo dồi dào trên 200 đầu sách. Tô Hoài có quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh độc đáo và có phần quyết liệt “viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Phải chăng vì thế mà Vợ chồng A Phủ được coi là tác phẩm thành công nhất, phản ánh những hiện thực tàn khốc của cuộc sống ngoài kia. Với chuyến đi thực tế của mình, chung sống và ăn ở cùng người dân Tây Bắc mà ông đã hiểu những cơ cực và vẻ đẹp tâm hồn của những người dân lao động vùng cao.

Tô Hoài được biết đến như nhà văn của phong tục và người dân miền núi phía Bắc. Có lẽ vậy mà Tô Hoài chia sẻ: “Tây Bắc đã để thương, để nhớ trong tôi”. Ông tìm kiếm sự chân thực với quan niệm viết văn là một quá trình không tầm thường, phản ánh sự thật ở đời cho dù phải đập vỡ những hình tượng trong lòng bạn đọc. Nếu cùng thời với nhà văn, Nguyễn Tuân lên Tây Bắc tìm thứ vàng mười đã qua thử lửa thì Tô Hoài Lên Tây Bắc với quan niệm Văn chương và khao khát đóng góp cho cuộc đấu tranh của nhân dân. Tám tháng gắn bó với bà con dân tộc miền núi phía Bắc là tám tháng Tô Hoài hiểu và cảm đời sống cùng tấm lòng của người dân nơi đây. Trước khi về, tạm biệt dân làng tại chân núi, hai tiếng “Cháo lù! Cháo lù!” (Trở lại! Trở lại!) để lại nỗi nhớ da diết về người thương nơi đây. Ông viết tập Truyện Tây Bắc và trong đó “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc nhất. Truyện hoàn thành năm 1953 với người phụ nữ tên Mị trải qua cuộc đời đầy bi kịch trước những hào quang bề ngoài. Thế nhưng, sau sự cam chịu sống dật dờ, Mị đã thức tỉnh khao khát hạnh phúc và bứt phá khỏi sợi dây cường quyền, thần quyền để tìm lại tự do cùng với A Phủ.

“Văn học nghệ thuật luôn đứng ngoài những quy luật về sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” (Sê-đê-rin). Có thể coi Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm như thế. Đã hơn nửa thế kỉ trôi qua, chất vàng mười trong nó vẫn còn vẹn nguyên. Tác phẩm đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao đời của đồng bào dân tộc vùng cao dưới ách thống trị của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Từ nỗi thống khổ ấy, Tô Hoài đã bằng một trái tim nhân đạo bao la, một giác quan cách mạng nhạy bén mà tìm thấy một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt bên dưới cái vỏ câm lặng, cam chịu của người dân vùng cao.

Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm đạt kỷ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc.

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “Ổ chuột”, “Dế mèn phiêu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”… Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.

Tô Hoài là nhà văn rất thành công trong những nhà văn thuộc nền văn xuôi hiện đại. Tác phẩm của ông thường viết về những vấn đề gần gũi thân quen trong cuộc sống thường ngày. Tác phẩm Vợ chồng A phủ là tác phẩm viết về đề tài Tây Bắc mang lại những giá trị sâu sắc. Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh, nhưng có vẻ đẹp tâm hồn và có sức sống mãnh liệt, dám đứng lên đấu tranh tìm lại hạnh phúc cho mình.

Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký” thì sau năm 1945, tập “Truyện Tây Bắc” đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới. Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.

Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài (xuất bản năm 1953). Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.

Đọc “ Tắt đèn” của Ngô Tất Tố ta không thể quên được hoàn cảnh cuộc đời của chị Dậu- cuộc đời của kẻ khốn khó cùng yêu thương… cho đến khi đọc truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài ta mới nhận thấy rõ hơn, sâu sắc hơn nỗi khổ của người miền núi nói chung và điển hình là nhân vật Mị. Một cô gái xinh đẹp hiếu thảo nhưng lại là nạn nhân của chế độ phong kiến bất công tàn ác. Xã hội ấy đã biến Mị trở thành một con người câm nặng, vô cảm, lầm lũi, nhưng cuối cùng con người ấy không chịu số phận tự vùng lên cứu người và giải thoát chính bản thân mình.

Con người sinh ra vốn đã được tạo hóa ban tặng cho quyền được sống, được làm người và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Ý thức được điều đó, khao khát được hòa mình vào cuộc sống, con người đã vượt qua mọi trở ngại khó khăn, thử thách để hướng tới một điều thật ý nghĩa: sự sống. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng đã phần nào biểu hiện điều đó. Bằng sức sống mãnh liệt, lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.

“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài, được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả cuộc thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về cuộc đời khốn khó trăm chiều của người dân vùng cao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc “Vợ chồng A Phủ”, ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ – một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và, đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thông lí Pá Tra.

Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết gần gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có sức ám ảnh đối với người đọc.

Tô Hoài là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Ông viết trên nhiều mảng đề tài và ở mảng nào Tô Hoài cũng chứng tỏ mình là bậc thầy trong miêu tả phong tục và nếp sinh hoạt của con người. Đằng sau những phong tục tập quán đó chúng ta còn thấy được số phận, điệu hồn, tính cách của mỗi người dân Việt Nam. Vợ chồng A Phủ có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Đằng sau những trang văn phong tục là cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ của Mị, nhưng đồng thời trong cô còn có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

“Vợ chồng A Phủ” được xem là một trong những bằng chứng tố cáo đanh thép tội ác của chế độ phong kiến cũ nát đè lên vai người phụ nữ nói chung và nhân vật Mị nói riêng. Hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm đã được Tô Hoài khắc họa rất thành công cả về hình thức lẫn tâm hồn.

Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lòng người. Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong tác phẩm này

“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật này.

Nằm trong tập “Truyện Tây Bắc’ có thể nói truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một trong những “đứa con tinh thần” ưu tú nhất của chuyến đi thực tế miền núi Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài.Có thể nói đây là tác phẩm phản ánh đậm nét cuộc sống và số phận bất hạnh và đầy éo le của những người nông dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Qua đó, dường như ta đã thấy được tác giả cũng làm nổi bật lên khát vọng và nghị lực sống mãnh liệt của những người nghèo khổ. Và bên cạnh nhân vật Mị thì nhân A Phủ chính là một nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc về sự bản lĩnh vượt lên số phận và vượt lên chính mình.

Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952. Đây là truyện hay nhất in trong tập “Truyện Tây Bắc” của nhà văn Tô Hoài (1953) và đạt giải nhất của Hội văn hóa nghệ thuật 1954 – 1955. Nhà văn muốn làm hiển hiện lại cuộc sống của người dân tộc trung thực, chí tình quý trọng tình cảm cho dù gian nan đến đâu cũng mong đợi ngày mai tươi sáng, tiêu biểu là nhân vật A Phủ. Đây là nhân vật được nhà văn xây dựng với hình tượng thật đặc biệt.

Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, người đọc không khỏi ấn tượng với nhân vật A Phủ- một chàng trai dân tộc với số phận bất hạnh nhưng có những phẩm chất phi thường. A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu.

Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.

Tây Bắc là mảnh hồn thiêng của núi sông, là miền đất hứa có khả năng sản sinh ra năng lượng dồi dào cũng như truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ để họ viết nên những trang thơ, trang văn lấp lánh. “Người mẹ của hồn thơ” ấy đã thả hồn vào bao vần thơ đẹp của Chế Lan Viên, đã lấp lánh “chất vàng mười” trong hình tượng người lái đò của cụ Nguyễn Tuân và phả vào trang viết của Tô Hoài sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người lao động. Đó là phẩm chất, khí phách và tâm hồn của một chàng trai hoang dại A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.

Trong một tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng, đó là chiếc chìa khóa để giải mã ý nghĩa ẩn sâu bên trong mỗi tác phẩm, và cũng là nơi tác giả nhắn nhủ cảm xúc, tâm tư, trăn trở của bản thân. Nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một nhân vật như thế, một nhân vật có số phận nhỏ bé, khổ đau; nhưng ẩn trong đó là nghị lực sống tiềm tàng, mạnh mẽ.

Tôi đã từng đọc ở đâu đó “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con người”. Và tôi biết một người nghệ sĩ như thế – một nhà văn viết về Tây Bắc bằng cả tấm lòng của mình, cả niềm thương nỗi nhớ luôn thường trực trong trái tim – Tô Hoài! Trong số những thành công của ông, không thể không nhắc đến “Vợ chồng A Phủ”- truyện ngắn mang giá trị sâu sắc, đặc biệt là hình ảnh nhân vật A Phủ.

Vợ chồng A phủ nói lên nỗi bất hạnh của người dân trong xã hội lúc bấy giờ trước sự áp bức bóc lột của chế độ thực dân phong kiến. Tác giả đã khắc họa chi tiết cuộc sống cũng như tâm tư tình cảm, khát vọng được tự do của người dân vùng núi miền Tây Bắc, qua đó thể tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn với người dân.

Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm văn học rất phong phú và đa dạng: Đó là biểu hiện của lòng yêu nước thương nòi, lên án tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên con người. Đồng thời, khẳng định đề cao phẩm chất, tài năng, những khát vọng chính như khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, công lý và chính nghĩa, đề cao đạo lý tốt đẹp giữa người với người.

Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cùng sự nhạy bén trong việc sử dụng ngôn từ. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn với tinh thần nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Điều này đã được thể hiện thông qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong văn học hiện đại Việt Nam, các sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường với lối viết giản dị, gần gũi, thông tục. Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Có được thành công như vậy là vì truyện ngắn không chỉ mang giá trị hiện thực sâu sắc mà còn thể hiện rõ giá trị nhân đạo cao cả.

Advertisement

Mỗi người yêu văn Tô Hoài từ trong tiềm thức của mình, nhắc đến Tô Hoài trước cách mạng tháng Tám, ta không thể không nhắc đến tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí. Sau cách mạng, ông lại nổi lên với tập Truyện Tây Bắc với 3 truyện tiêu biểu đó là Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu Mường và Mường Giơn giải phóng. Trong đó, Vợ chồng A Phủ là linh hồn của cả tập truyện.

Tô Hoài được biết đến là một trong số những nhà văn thành công nhất khi viết về cuộc sống và con người nơi miền Tây Bắc của Tổ quốc trong những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ mà kiên cường, bất khuất của dân tộc. Với lối trần thuật sinh động, ngôn ngữ gợi cảm cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, những trang viết của Tô Hoài luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một trong số những tác phẩm đó. Đọc “Vợ chồng A Phủ” người đọc không thể nào quên được hình ảnh nhân vật Mị – một cô gái sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.

Cuộc đời của Mị được tính từ khi cô về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Thường thì khi người con gái lấy chồng giàu thì sướng, nhàn hạ. Nhưng đây, Mị chỉ lùi lũi một mình, câm lặng. Xưa kia Mị cũng đã có một thời con gái hạnh phúc (trong đói nghèo). Những đêm tình mùa xuân, con trai đến thổi sáo đứng “chật cả chân vách đầu buồng Mị”. Và Mị đã có một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và loài hoa ấy luôn mở rộng để đón nhận hương hoa của cuộc đời. Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt trong cái đêm Mị bị bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. “Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”. Mị bị bắt cóc để rồi trở thành con dâu thống lí là trả cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.

Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính đến nay đã già nửa thế kỷ. Hơn 60 năm cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại phong phú, đa dạng. Thế nhưng nhắc đến Tô Hoài ta ko thể quên được tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu kí”- tác phẩm tiêu biểu trước Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng, Tô Hoài lại nổi lên với tập truyện Tây Bắc mà linh hồn của nó là Vợ chồng A Phủ.

Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mạng, các sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo. Sau cách mạng, các sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động ấy. Quá trình vận động từ khổ đau đến hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.

Vợ chồng A Phủ (1953), Miền Tây (1967), Vừ A Dính (1962)… là những tác phẩm nổi tiếng của Tô Hoài viết về phong tục, cảnh sắc và con người miền Tây của Tổ quốc ta. Tô Hoài đã từng nói: “Tôi coi Việt Bắc, Tây Bắc cũng như một quê hương đề tài của tôi…” (Văn nghệ số 14/10/1995). Tập truyện Tây Bắc là một nét son chói lọi đầu tiên của sự nghiệp văn chương Tô Hoài viết về đề tại miền Tây. Một chuyến đi dài, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Ông đã viết thành công tác phẩm “Truyện Tây Bắc”, trong đó có truyện “Vợ chồng A Phủ”. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Những trang viết về Mị – một trong hai nhân vật chính của truyện là vô cùng cảm động. Mị tuy bị chà đạp, bị giày xéo trong bể khổ cuộc đời, nhưng cô đã có một sức sống tiềm tàng kỳ lạ!

Sau cách mạng tháng 8, ngòi bút của Tô Hoài đi sâu khám phá sức sống mạnh mẽ của những người dân tộc thiểu số miền núi. Trong chuyến đi lên vùng núi phía Bắc của mình, ông đã cho ra đời tác phẩm Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, mang trong mình sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

Theo Tô Hoài “Nhân vật là trụ cột của sáng tác, phải chuẩn bị nhân vật trước tiên”. Từ quan điểm ấy, Tô Hoài đã xây dựng được một số nhân vật để lại ấn tượng thẩm mĩ trong lòng người đọc. Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài đến với chúng ta đầu tiên trong cái dáng “lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”, suốt ngày làm lụng, “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tưởng đâu như sức sống đã lụi tàn trong tâm hồn cô gái. Nhưng không, từ tận đáy sâu tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói những tia lửa sống chỉ chờ dịp mà bùng lên mạnh mẽ.

“Đất nước và con người miền Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá” (Tô Hoài). Là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Tô Hoài thu hoạch được sau chuyến đi bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài tám tháng, tập truyện “truyện Tây Bắc” là nỗi nhớ niềm thương bồi hồi xúc động, là lời tri ân sâu sắc mà nhà văn dành tặng cho mảnh đất con người Tây Bắc đau thương mà anh dũng, đẫm nước mắt tủi hờn mà vời vợi chất thơ. Là truyện ngắn đặc sắc hơn cả của tập truyện, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm, tủi nhục và sức mạnh vùng lên vươn tới chân trời tự do hạnh phúc của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc. Giá trị của tác phẩm được kết tinh ở hình tượng nhân vật Mị.

Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm ra đời từ kết quả cuộc thâm nhập đời sống đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, kể về cuộc đời khốn khó chăm chiều của người dân vùng cao khi chưa có ánh sáng của Đảng. Đọc Vợ chồng A Phủ, ta không thể quên được chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ – một chi tiết làm nên mọi giá trị tác phẩm. Và đúng như ai đó đã từng nói, khi cắt dây cứu A Phủ, Mị đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thông lí Pá Tra.

Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại với gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện… và “Vợ chồng A Phủ” được xem là truyện ngắn đặc sắc nhất trích từ tập Truyện Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” đã khắc họa thành công bức tranh hiện thực của người dân miền núi dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi mở đường giải thoát cho thân phận hai kẻ nô lệ bất đắc dĩ – Mị và A Phủ. Trong đó, diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu đậm nhất.

Tô Hoài là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Tiêu biểu trong đó có thể kể đến truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, thông qua câu chuyện về đôi vợ chồng người H’ Mông, tác giả Tô Hoài đã khắc họa thành công bi kịch của người nông dân trong xã hội xưa. Dưới sự áp bức của cường quyền, con người không chỉ bị chà đạp về nhân phẩm mà còn bị tước đoạt tự do, hạnh phúc. Chi tiết giọt nước mắt của A Phủ gần cuối tác phẩm là chi tiết đắt giá khi không chỉ thức tỉnh sức sống, sự phản kháng trong Mị mà còn mang nhiều ý nghĩa lớn lao.

Tô Hoài là nhà văn tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam. Sáng tác của Tô Hoài sau cách mạng tháng tám có rất nhiều. Ông được xem là người có số lượng tác phẩm đồ sộ đạt kỉ lục nhất trong kho tàng văn học Việt Nam. “Vợ Chồng A Phủ” đã khắc họa thành công tấn bi kịch cuộc sống của người nông dân miền Tây Bắc xa xôi. Chi tiết “giọt nước mắt a Phủ” đã để lại cho ta những suy nghĩ .

………………

Văn Mẫu Lớp 9: Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Sang Thu Của Hữu Thỉnh (Sơ Đồ Tư Duy) Dàn Ý &Amp; 7 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất

Đề bài: Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.

Sơ đồ tư duy Phân tích khổ đầu bài Sang thu

Dàn ý phân tích khổ đầu bài Sang thu

a) Mở bài

Giới thiệu về tác giả Hữu Thỉnh: Hữu Thỉnh (1942) là một nhà thơ viết nhiều về con người và cuộc sống thiên nhiên.

Giới thiệu bài thơ Sang thu: Sang thu (1977) là một bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh viết về mùa thu, thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

Dẫn dắt vấn đề và trích dẫn khổ thơ đầu bài Sang thu: Khổ thơ đầu bài thơ đã để lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khắc giao mùa.

b) Thân bài: Phân tích khổ đầu bài Sang thu

* Luận điểm 1: Thiên nhiên sang thu được cảm nhận từ những gì vô hình.

– “Hương ổi”: làn hương đặc biệt của mùa thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ.

* Luận điểm 2: Cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu.

– Tất cả các từ: “bỗng, phả, hình như” đều bộc lộ rõ tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng khuâng trước những phát hiện thú vị báo thu về:

“Hình như thu đã về”

+ “Hình như”: một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng.

* Nhận xét về đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ

Khả năng quan sát tinh tế

Ngòi bút miêu tả với những nét vẽ gợi tả độc đáo

Thủ pháp nhân hoá

c) Kết bài

Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của khổ thơ đầu Sang thu.

Cảm nhận của em về khổ thơ.

Phân tích khổ đầu Sang thu

Hữu Thỉnh được biết đến là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông chính là bài thơ Sang thu. Đoạn thơ mở đầu là những dấu hiệu thông báo mùa thu đã đến bên tác giả.

Bốn câu thơ đã đem đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên, những tín hiệu của mùa thu với những nét phác họa tài hoa đầy gợi cảm. Mùa thu đến không hề báo trước khiến nhà thơ giật mình vì “bỗng” ngửi thấy hương ổi. Động từ “bỗng” thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của người thi sĩ trước sự chuyển mình đột ngột của thiên nhiên, của tiết trời. Ổi phải chín đến nhường nào, thơm ngon đến nhường nào hương thơm của nó mới đủ mạnh để tạo ra một sự lan tỏa như vậy trong không gian. Làn sương như thấp hơn, trùng xuống, lững lờ trôi thật chậm như muốn cảm nhận được trọn vẹn không khí mùa thu mát mẻ, dễ chịu. Lạc giữa làn mây ấy, nhà thơ không nén nổi niềm xúc động, mơ màng thốt lên rằng: “Hình như thu đã về”. “Hình như” diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng băn khoăn, không chắc chắc trước cảnh đẹp thiên nhiên này.

Bốn câu thơ ngắn gọn, hàm súc nhưng đầy sự tinh tế, tài hoa trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật của tác giả. Qua đoạn thơ, người đọc cảm nhận trọn vẹn hơn vẻ đẹp của buổi chớm thu ở một làng quê thanh bình cũng như thêm yêu vẻ đẹp giản dị, thân thuộc của quê hương, đất nước.

Phân tích khổ 1 bài thơ Sang thu

Là người con của quê hương Vĩnh Phúc, Hữu Thỉnh đã ghi tạc vào lòng người những vần thơ thiết tha, rung động tâm hồn bao người với đề tài mùa thu quen thuộc. Tuy nhiên, giữa ông và các nhà thơ khác vẫn có những nét riêng biệt. Đó là cách cảm nhận đầy tinh tế về sự chuyển mình của đất trời khi bước sang thu qua bài thơ “Sang thu” được sáng tác năm 1977. Dòng cảm xúc đầu tiên được tái hiện sắc nét qua khổ thơ thứ nhất:

Đây có thể được coi là khổ thơ hay và để lại dấu ấn sâu đậm cho mỗi ai khi đọc “Sang thu”. Đất trời chuyển mình, mỗi năm có bốn mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào cũng đã từng một lần được đặt chân đến mảnh đất của thơ ca Việt Nam. Ấy vậy mà thi nhân vẫn luôn dành sự ưu ái cho mùa thu dịu nhẹ. Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã từng khẳng định tên tuổi của mình với ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu điếu” và “Thu ẩm”. Hay ông hoàng thơ tình – Xuân Diệu cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình qua “Đây mùa thu tới” và còn cả Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu”. Mỗi sáng tác lại là một cảm nhận, một cách nhìn riêng biệt. Với Hữu Thỉnh mùa thu của ông được hé mở cùng những nét vẽ đậm sắc màu của vùng đồng bằng Bắc Bộ:

Hương ổi có lẽ đã quá thân quen với những người con của làng quê Việt Nam. Thân quen là thế nhưng rồi vô tình người ta lại vô tình lãng quên nó để rồi trong khoảnh khắc giao mùa mới bất giác nhận ra. “Bỗng” rồi “phả”, hai động từ được đặt trực tiếp ở đầu câu như một sự kết hợp hoàn hảo, cùng nhau viết lên tâm trạng của nhà thơ. Phải chăng đó là sự ngỡ ngàng, bối rối khi bất chợt nhận ra tín hiệu của mùa thu? Động từ “phả” dường như đang tập trung làm bật lên hương thơm nồng nàn từ vườn ổi chín lan tỏa rộng khắp, hòa cùng gió se – gió hơi lạnh và khô, chạm tới khứu giác của nhà thơ. Ông như đang mở rộng lòng mình để kịp đón nhận và tận hưởng hết sự bắt đầu nhẹ nhàng của một mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ. Không chỉ có hương ổi hay gió thu mà trong dòng cảm nhận về những tín hiệu đầu tiên còn là sương thu:

“Sương chùng chình qua ngõ”

Câu thơ như khoác trên mình một diện mạo mới qua nghệ thuật nhân hóa “chùng chình”. Đọc đến đây ta mới cảm nhận hết được cái đẹp của tiết trời chớm thu. Sương vẫn chuyển động chậm rãi, từ từ như cô gái còn rụt rè, e ngại điều gì đó. Đường làng được bao quanh bởi một màn sương mờ ảo, cảnh vật yên tĩnh không thấy ở đâu bất kì một “vết nứt” nào. Từ đó gợi mở về một làng quê trong cuộc sống bình yên, tĩnh lặng, cảnh vật thì lung linh, huyền ảo và cũng thật dân dã.

Có hương ổi, có gió se, có sương thế nhưng tất cả đang trong sự vận động vô cùng chậm rãi. Mọi thứ cứ mơ hồ như vậy khiến lòng người cũng dấy lên một chút gì đó mơ hồ, lưỡng lự:

“Hình như thu đã về”

Dường như câu thơ lại là một câu hỏi tác giả tự đặt ra để chất vấn lòng mình: thu đã về hay chưa? Thu về từ bao giờ, từ đâu? Ông đang rơi vào lòng hoài nghi. Đó chính là một chút bối rối đậm chất thi sĩ khi cảm nhận thời khắc đất trời chuyển mình sang thu.

Khác với Hữu Thỉnh, Xuân Diệu lại có cái nhìn rất mạnh mẽ trước sự khởi đầu của mùa thu: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”. Tuy không mạnh mẽ như Xuân Diệu nhưng cái do dự, ngập ngừng của Hữu Thỉnh lại rất hay bởi cảm nhận của ông là cảm nhận thâm trầm và kín đáo vô cùng. Từ cảm nhận tinh tế ấy, phải chăng hương ổi, gió se, sương thu đã trở thành cái riêng biệt của mùa thu? Tuy đã cảm được nhưng vẫn không hề chắc chắn và có lẽ thu đang đến rồi nhưng chưa hoàn toàn rõ nét.

Khổ thơ với kết cấu ngắn gọn chỉ với hai mươi chữ nhưng đã để lại sâu đậm trong lòng bạn đọc biết bao rung cảm về một hồn quê nơi đồng bằng Bắc Bộ đã làm ấm lòng người. Qua đây còn là một phát hiện về những tín hiệu tiêu biểu và đặc trưng khi mới chớm mùa thu cùng tâm trạng ngỡ ngàng bối rối rất thi sĩ của nhà thơ.

Phân tích khổ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 1

Năm tháng trôi qua, nhiều thứ đã trở thành dĩ vãng tuy nhiên những giá trị thì vẫn trường tồn cùng thời gian và gây ấn tượng sâu sắc với thế hệ đi sau. Có thể lúc bấy giờ có rất nhiều tác phẩm văn học tiêu biểu, nhưng mãi sau này chúng ta vẫn còn ấn tượng và yêu quý nhà thơ Hữu Thỉnh cùng bức tranh mùa thu xinh đẹp với tình yêu tha thiết của tác giả dành cho mùa thu thông qua bài thơ Sang thu. Mở đầu bài thơ là những dấu hiệu mùa thu đã về:

Mùa thu ở đồng quê gắn liền với hương ổi, một đặc trưng không thể thiếu. Mùa thu đến không hề báo trước khiến nhà thơ giật mình vì “bỗng” ngửi thấy hương ổi. Hương ổi không thoảng trong gió mà phả vào gió – một động từ mạnh, một cách dùng từ mới mẻ trong thơ của Hữu Thỉnh mang đến cho bạn đọc một cách nhìn khác về mùa thu đến. Bên cạnh hương ổi là ngọn gió, gió không mang hơi nóng như mùa hè mà se se mát lạnh làm lòng người dịu êm. Làn sương như thấp hơn, trùng xuống, lững lờ trôi thật chậm như muốn cảm nhận được trọn vẹn không khí mùa thu. Đây vốn là là những sự vật gần gũi, thân thuộc với mùa thu ở miền quê thanh bình, tĩnh lặng, bình yên nhưng dưới ngòi bút tài tình của tác giả, nó trở nên đẹp đẽ, thanh cao và đáng yêu lạ thường.

Bức tranh mùa thu được tác giả Hữu Thỉnh khắc họa qua hình ảnh, cách nhìn, cảm nhận và cả tận hưởng: hương ổi, gió, sương,… đây là sự kết hợp của nhiều giác quan khác nhau mang qua bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm cho bạn đọc hình dung ra những đặc trưng của mùa thu và bức tranh mùa thu nơi quê nhà thanh bình như được hiện ra rõ nét hơn, đẹp đẽ hơn.

Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ mang đến cho bạn đọc một bức tranh mùa thu bình dị mà còn góp phần làm phong phú kho tàng văn học Việt Nam. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.

Phân tích khổ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 2

“Sang thu” là một bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh. Khổ thơ mở đầu bài thơ đã để lại cho người đọc những cảm nhận sâu sắc:

Từ “bỗng” đã thể hiện được sự ngạc nhiên, bất ngờ của tác giả. Chữ “bỗng” được tác giả đặt ở đầu bài thơ như để đánh động mọi giác quan, mọi cảm nhận của độc giả để nhận ra sự chuyển mình của trời đất. Và vào khoảnh khắc ấy hương ổi vừa ngọt ngào vừa nồng nàn đã đánh thức giác quan của thi nhân. Ổi phải chín đến nhường nào, thơm ngon đến nhường nào thì mùi hương của nó mới đủ “phả vào trong gió se”.

Mùi hương ấy đã lan tỏa trong cái rét nhè nhẹ của đất trời, tạo nên một hương ổi ngọt ngào, thanh mát. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. Chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.

Phân tích khổ thơ đầu tiên trong bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh tiếp nối những tín hiệu của mùa thu là hình ảnh: “sương chùng chình qua ngõ”. Sương trong câu thơ của Hữu Thỉnh được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động chậm rãi. Từ láy “chùng chình” khiến người đọc liên tưởng đến sự thong thả, yên bình trong cái tĩnh lặng của thiên nhiên. Hình ảnh sương chùng chình qua ngõ cùng với hương ổi phả vào trong gió se là những hình ảnh mùa thu ở thôn quê êm ả thanh bình.

Như vậy, thu đến đã được cảm nhận bằng cả khứu giác và thị giác. Câu hỏi có vẻ dè dặt: “Hình như thu đã về” nhưng thật ra là một lời thông báo rất nhẹ nhàng rằng thu đã đến với tất cả chúng ta. Câu thơ không phải là một lời khẳng định hay một tiếng reo vui mà nó mang chút gì đó thâm trầm, kín đáo của người dân thôn quê.

Chỉ bốn câu thơ nhưng lại để trong lòng người đọc biết bao rung động. Bốn câu thơ còn chứa đựng trong đó là bức tranh thiên nhiên thôn quê khi thu về. Điều này đã khiến đoạn thơ càng trở nên gần gũi, thân thuộc.

Bằng nét vẽ gợi tả, Hữu Thỉnh đã giúp người đọc cảm nhận được sự chuyển mình của mùa thu. Đồng thời qua đây người đọc cũng thấy được khả năng quan sát tinh tế, ngòi bút miêu tả độc đáo của tác giả. Chính điều đó đã góp phần làm nên thành công và tạo chỗ đứng trong lòng độc giả.

Phân tích khổ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 3

Bốn mùa trong thiên nhiên đều mang trong nó những nét đẹp quyến rũ rất riêng những có lẽ mùa thu dễ đem lại trong lòng nhiều dư vị, cảm xúc nhất và trở thành nguồn cảm hứng bất tận để người nghệ sĩ chắp bút, cất lên tiếng lòng trước sự kỳ diệu đầy quyến rũ của thiên nhiên. Cái lạnh đầu mùa, những chuyển động tinh tế của thiên nhiên qua từng ngọn cây, kẽ lá đã đi vào những trang thơ với tất cả những gì tinh tế nhất, Và vẻ đẹp ấy đã được nhà thơ Hữu Thỉnh bắt gặp, viết nên những vần thơ thu bâng khuâng, xao xuyến lòng người. Và nó được thể hiện rõ nhất qua khổ đầu của bài thơ “Sang thu”.

Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, ông sinh ra ở mảnh đất Vĩnh Phúc. Thế giới nghệ thuật trong thơ ông mang nhiều dấu ấn đậm nét. Đó là thành quả một đời tích lũy của tư duy nghệ thuật mạnh mẽ, hiệu quả. Dọc con đường thơ, Hữu Thỉnh đã nỗ lực tìm kiếm không ngừng, đổi mới sáng tạo từ truyền thống sang hiện đại. Và “Sang thu” là một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất tinh thần ấy của ông. Năm 1977, “Sang thu” ra đời, nằm trong tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố” (1991). “Sang thu” là một bức thông điệp lúc giao mùa. Mùa hạ dần qua, mùa thu tới, khoảnh khắc ấy được diễn tả bằng sự rung cảm tinh tế, sự trải nghiệm sâu sắc của nhà thơ.

Trong thơ ca, nhiều nhà thơ đã dùng những hình ảnh biểu tượng để diễn tả mùa thu đang gần kề. Với Xuân Diệu đó sắc “mơ phai” của lá dệt trên muôn cây:

(Đây mùa thu tới)

Và với Hữu Thỉnh là vị “hương ổi” của vườn quê phả vào trong làn gió đặc trưng của mùa thu. Cái hương vị nồng nàn ấy luôn khiến con tim ta xao xuyến:

Advertisement

Hữu Thỉnh thể hiện sự tài tình khi sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện. Chữ “bỗng” bật ra trong sự bất ngờ đầy thú vị. Thu đã về với đất trời, với lòng người mà không hề báo trước. Với hai câu thơ với hàng loạt những hình ảnh mang tính biểu trưng, Hữu Thỉnh đã đưa đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc mùi vị của thiên nhiên. Đó là mùi thơm của hương ổi, cái lạnh nhè nhẹ chạm vào da thịt của gió se. Tại sao không phải là những hương vị khác như ngô đồng trong thơ Bích Khê, mùi hương cốm mới trong thơ Nguyễn Đình Thi. Với Hữu Thỉnh, mùa thu đến với ông qua mùi thơm của hương ổi, thứ hương thơm dân dã, bình dị của đồng quê. Nó không rõ ràng như hương ngô đồng,hay nồng nàn như mùi cốm mới mà nó là thứ hương thoảng qua. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, gợi những gì làng quê nhất. Gió se là làn gió nhè nhẹ lướt quá, mang theo một hơi lạnh. Huy động khứu giác để cảm nhận mùi thơm của hương ổi, xúc giác để cảm nhận cái lạnh của gió se, mùa thu như lan tỏa khắp không gian nơi vườn thôn, ngõ xóm. Có lẽ rằng, phải yêu thiên nhiên, gắn bó với mảnh đất nơi miền quê lắm thì Hữu Thỉnh mới viết được những vần thơ nhưng vậy?

“Phả” vốn là một động tác mạnh gợi một cái gì đó đột ngột, nó diễn tả cái tốc độ của gió, vừa diễn tả sự bất chợt trong cảm nhận. Một cái gì đó thật nhẹ nhàng, êm ái. Nó gợi hình dung về hương ổi chín, về sự vận động của gió đưa hương. Hương ổi thơm như hòa quyện lại, luồn vào trong gió se. Một câu thơ ngắn mà chứa cả gió cả hương Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Những đặc trưng thu ấy chỉ tìm được ở những vùng quê miền Bắc, bởi vậy chỉ qua hai câu thơ, ta đã thấy tình cảm gắn bó với quê hương của nhà thơ. Mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh không chỉ là hương ổi, là gió se mà còn là hình ảnh những màn sương sớm:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Hai chữ “hình như” gợi ra một cảm giác đầy mơ hồ, mong manh giống như một sự tự vấn lòng mình. Thế nhưng thực ra là một lời thông báo – một thông báo rất nhẹ nhàng, ý vị. Mùa thu giờ đây như xâm chiếm cả không gian, thời gian. Bằng cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của một nhà thơ, chỉ với một khổ thơ với hai mươi tiếng đã để lại cho người đọc biết bao rung động về khoảnh khắc giao mùa của đất trời thật ngỡ ngàng, gợi cảm nhưng cũng thật ấm áp.

Thu trong thơ Hữu Thỉnh sâu lắng và nhẹ nhàng, nó vương vấn, thoảng qua mãi trong tâm hồn người đọc về một tiết thu ở đồng quê Bắc Bộ Có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Với việc sử dụng ngôn ngữ tinh tế cùng với các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, “Sang thu” đã thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, những rung động mang mác, bâng khuâng trong thơ Hữu Thỉnh khi khắc họa thành công khoảnh khắc giao mùa của đất trời và những rung động của lòng người. Hơn cả cái khoảnh khắc giao mùa rung động lòng người ấy, là cả một tiếng lòng của một con người thiết tha yêu quê hương, luôn hướng về những gì thân thuộc, gần gũi nhất, một tiếng thu nồng nàn thiết tha.

Phân tích khổ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 4

Mùa thu một trong bốn mùa trong năm, đã đi vào rất nhiều tác phẩm thi ca nổi tiếng. Được các thi nhân ưu ái đặt cho biệt danh nàng thu. Trong đó có nhà thơ Hữu Thỉnh. Bằng cái nhìn mộc mạc chân thực của mình Hữu Thỉnh đã tạo nên một Sang thu đầy bất ngờ và quyến rũ. Trong đó có khổ thơ đầu tiên:

Mùa thu được biết đến là một trong những mùa đẹp nhất trong năm. Nó không có cái nắng oi ả của mùa hẹ, cái ẩm ướt của mùa đông hay đỏng đảnh của mùa xuân, mùa thu bình dị và thân quen đến lạ. Có rất nhiều thi nhân đã tìm đến mùa thu như một điểm gặp mặt tuy nhiên hay nhất và gần gũi nhất thì không thể không nhắc đến Sang thu của nhà thơ Hữu Thỉnh.

Từ “Bỗng” mở ra ở đầu bài thơ như một cái giật mình đầy bất ngờ. Sở dĩ tác giả đặt từ bỗng ngay đầu bài là có dụng ý nghệ thuật khác. Trong cái chuyển mình của trời đất mọi giác quan đều phải nghiêng mình đánh động. Đó là mùi hương ổi nhẹ nhàng và tinh tế. Mùa thu đến không phải đến từ không gian mà bắt đầu từ khứu giác. Không biết hương ổi đã ủ chín từ bao giờ lặng lẽ tỏa hương tự bao giờ nhưng vào khoảnh khắc này nó đã vươn mình đánh thức sự chuyển mình của không gian và giác quan của thi nhân. Hương thơm ấy mạnh đến nỗi nó trở nên ngào ngạt phả vào gió se. Thứ hương thơm đó quyến rũ, nồng nàn đến nhường nào mới đủ sức lan tỏa trong một khoảng không gian rộng lớn đến vậy.

Gió se ở đây là gió se lạnh heo may mỗi dịp đầu thu đến nó khiến gai gai nơi cánh tay. Nếu như nhà thơ Xuân Diệu đã từng có những câu từ mạnh mẽ để miêu tả luồng gió se “Những luồng run rẩy rung rinh lá”. Thì gió thu trong thơ Hữu Thỉnh lại rất đỗi êm ái dịu dàng. Để miêu tả về những làn sương thu nhà thơ cũng dùng những câu chữ vô cùng tinh tế:

Từ láy “chùng chình” mang nét gợi hình đầy cảm xúc. Chùng chình ở đây nghĩa là chậm chạp, nhà thơ đã khéo léo nhân hóa hình ảnh sương như những đứa trẻ tinh nghịch náu mình trong ngõ, chùng chình chẳng muốn lộ diện.

Bằng ấy thứ cảm nhận đã mang nhà thơ đến với một nhận định mơ hồ “hình như thu đã về”. Từ hình như là một câu khẳng định mơ hồ không dám chắc. Nhà thơ cũng cảm thấy giật mình trước sự thay đổi ngỡ ngàng của thời gian và không gian. Giữa cái khoảnh khắc giao hòa chuyển mình vĩ đại ấy thi nhân vẫn còn đang lâng lâng huyền ảo.

Có thể nói khổ thơ đầu tiên của bài Sang thu là một cảm nhận vô cùng tinh tế của nhà thơ về sự chuyển biến của đất trời. Khổ thơ đã tạo nên một điểm nhấn một nét chấm phá độc đáo trong những vần thơ diễn tả về thu tinh tế và đẹp nhất.

Phân tích khổ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 5

Hữu Thỉnh là một nhà thơ viết nhiều và hay viết nhiều về con người và cuộc sống thiên nhiên. “Sang thu” là một tác phẩm tiêu biểu viết về mùa thu của ông. Bài thơ không chỉ có hình ảnh thiên nhiên sang thu mà còn có bóng dáng con người trước mùa thu cuộc đời.

Sự biến đổi đất trời lúc sang thu hoặc tín hiệu sang thu (làn gió se) mang theo “hương ổi” nhà thơ ngỡ ngàng bâng khuâng xao xuyến trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa (“bỗng”, “hình như”).

Những biến chuyển trong không gian lúc sang thu được nhà thơ cảm nhận bằng nhiều giác quan và sự rung động tinh tế. “Hương ổi” lan vào không gian phả vào gió se, động từ “phả” là nét đặc sắc của hương ổi, mùi hương ổi lan tỏa vào trong gió với một không gian rộng. “Sương đầu thu” giăng mắc nhẹ nhàng chuyển động chầm chậm nơi ngõ xóm, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa rất đặc sắc qua động từ “chùng chình”. “Dòng sông” trôi thanh thản gợi vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên; những cánh chim bắt đầu vội vã, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa kết hợp với nghệ thuật đối và các từ láy đã mở ra một không gian cao rộng, khoáng đãng.

Cảm giác giao mùa được diễn tả thú vị qua đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” đây là hình ảnh sáng tạo, độc đáo và tạo nét riêng cho tác phẩm. Có lẽ mùa thu đang đến ngõ xóm báo hiệu mùa thu đang đến rất gần. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những cơn mưa cũng vơi bớt, tiếng sấm cũng không còn bất ngờ. Tác giả sử dụng từ ngữ vô cùng tinh tế qua từ “vẫn còn bao nhiêu”, “vơi dần”, “cũng bớt”. Hình ảnh sương thu chùng chình nơi ngõ xóm gợi liên tưởng con người bâng khuâng xao xuyến bịn rịn trước mùa thu của cuộc đời.

Lúc sang thu bớt đi tiếng sấm bất ngờ. Cũng có thể hiểu hình ảnh hàng cây đứng tuổi không bị bất ngờ, giật mình bởi tiếng sấm nữa. Với hình ảnh có giá trị tả thực về hình tượng thiên nhiên này nhà thơ muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì cũng vững vàng hơn trước những vang động của cuộc đời.

Với cách sử dụng từ ngữ độc đáo, cảm nhận tinh tế sâu sắc, hình ảnh thơ đẹp, ngôn ngữ tinh tế giọng thơ êm đềm. Sang thu thể hiện cảm nhận tinh tế của những chuyển biến nhẹ nhàng của khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu của miền Bắc. Qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên gắn bó với quê hương của tác giả và triết lí về con người và cuộc đời.

Sang thu là một bài thơ đặc sắc viết về thời điểm chuyển mùa từ cuối hạ sang đầu thu. Bài thơ vừa thể hiện tài năng sự cảm nhận tinh tế của tình yêu đồng thời thể hiện tình cảm của nhà thơ với thiên nhiên mùa thu. Đọc bài thơ chúng ta càng yêu hơn mùa thu thiết tha nồng hậu của quê nhà.

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 9: Tổng Hợp Những Mở Bài Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy (50 Mẫu) Mở Bài Ánh Trăng Của Nguyễn Duy trên website Ysdh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!